Cổ phiếu ngân hàng sẽ tạo sức bật cho VN-Index cuối năm
(Vietstock) - Trong đợt tăng giá vừa qua của VN-Index dường như thiếu vắng sự bùng nổ của các cổ phiếu ngành ngân hàng. Phải chăng giá các cổ phiếu thuộc ngành này đã tăng cao? Nếu có sức bậc mới cho VN-Index thì liệu cổ phiếu ngân hàng sẽ là động lực chính?
Cổ phiếu ngân hàng nhìn từ P/E
Trong khi P/E (thị giá trên lợi nhuận mỗi cổ phần) toàn thị trường ở mức 20.21 lần (số liệu cập nhật ngày 03/09/2009) thì P/E của một số ngân hàng chỉ vào khoảng 11 - 15.
Nguồn: Vietstock Finance (Số ước tính)
Bảng tính toán trên cho thấy, P/E của các ngân hàng như ACB, MB, TCB… đang ở mức khá thấp so với P/E toàn thị trường nói chung (20.21) và P/E trung bình ngành nói riêng (19.78). Cá biệt có một số trường hợp như Maritime Bank, Habubank… có P/E thật sự đang ở mức rất thấp. Tiềm năng tăng trưởng dài hạn của ngành cộng với hiệu quả hoạt động tương đối cao so với mức trung bình toàn khu vực (ROAE trung bình khu vực năm 2008 chỉ khoảng 16.63% trong khi Việt Nam lên đến 20.96%) cho thấy đây là một cơ hội hiếm có để đầu tư vào các cổ phiếu thuộc ngành này. Trong tương lai, nhiều khả năng P/E của ngành ngân hàng sẽ tiến gần đến P/E trung bình toàn thị trường để tạo nên một sức bật mới cho VN-Index trong những tháng cuối năm.
(ROAE - return on average equity): Lợi suất trên vốn chủ sở hữu bình quân
Nguồn: Báo cáo phân tích ngành ngân hàng năm 2008 (BVSC)
Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm rất khả quan
Nhìn vào bảng dưới đây chúng ta có thể thấy nhiều ngân hàng đã hoàn thành gần hết kế hoạch của năm 2009. Cá biệt có trường hợp của Vietcombank đạt đến 91.75% kế hoạch lợi nhuận cả năm. Một số ngân hàng thuộc nhóm 2 và nhóm 3 cũng đạt được những kết quả khả quan: SHB (75.36%), Eximbank (72.27%), Maritime Bank (65.69%)... Điều này càng tăng niềm hy vọng của việc vượt mức kế hoạch của các ngân hàng này. Nếu giữ được đà tăng trưởng lợi nhuận này trong những tháng cuối năm 2009 sẽ giúp cho EPS năm có mức tăng trưởng cao. Chính điều này tạo nên tính hấp dẫn cho cổ phiếu ngân hàng khi nhìn từ chỉ tiêu P/E.
Nguồn: Vietstock Finance (Số ước tính)
Nếu chỉ nhìn vào mức P/E forward 2009 dựa trên kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng thì mức P/E này tương đối cao nhưng cũng nằm trong xu hướng chung của thị trường (P/E forward 2009 chung của thị trường hiện nay khoảng trên 20 lần). Như xu hướng chung hiện nay trên thế giới, mức P/E của ngành tài chính-ngân hàng thường cao hơn mức trung bình của thị trường và cổ phiếu của ngành này thường được nhiều nhà đầu tư quan tâm.
Nguồn: Báo cáo thường niên và Báo cáo hàng quý các ngân hàng
Sẽ có sự cải thiện trong tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ
Tiềm năng tăng trưởng của ngành ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất lớn. 6 tháng cuối năm hoạt động tín dụng của các ngân hàng tuy không hoàn toàn khả quan do mức tăng trưởng tín dụng bị giới hạn 30% nhưng sẽ có sự cải thiện lớn trong tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ. Theo Mục 2, Khoản 3, Điều 1, Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, thời gian thử thách đối với các khoản nợ trung, dài hạn tối thiểu là 6 tháng và tối thiểu là 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn. Vì vậy, 6 tháng cuối năm sẽ có nhiều khoản nợ được lên nhóm tại các ngân hàng. Kinh tế phục hồi khiến cho các khoản nợ xấu và áp lực trích lập dự phòng giảm bớt.
Nhóm nợ
|
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
|
Nhóm 1 – Nợ đủ tiêu chuẩn
|
0%
|
Nhóm 2 – Nợ cần chú ý
|
5%
|
Nhóm 3 – Nợ dưới tiêu chuẩn
|
20%
|
Nhóm 4 – Nợ nghi ngờ
|
50%
|
Nhóm 5 – Nợ có khả năng mất vốn
|
100%
|
|
Nguồn: Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Ngân Hàng Nhà Nước
Lợi nhuận sẽ theo đà của thị trường
Tính đến hiện tại hầu hết các NHTMCP đã gần đạt được các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận của năm nay. Lợi nhuận 6 tháng cuối năm sẽ tiếp tục đà tăng trưởng khi mức tín dụng được đưa về như mức dự kiến ban đầu các ngân hàng xây dựng. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, mức tăng trưởng tín dụng 30% được biết trước cho kế hoạch kinh doanh năm 2009 của hệ thống ngân hàng chính. Vì vậy một động thái nới lỏng tín dụng lên 30% không làm đảo lộn hoạt động kinh doanh của hệ thống này. Do đó, thông tin NHNN có thể mở rộng giới hạn tăng trưởng tín dụng từ 25-27% lên 30% là một động lực giúp một số ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động.
Mặt khác với sự sôi động trở lại của nền kinh tế, các ngân hàng có thể gia tăng lợi nhuận từ các nghiệp vụ ngoài tín dụng (kinh doanh ngoại hối, sàn vàng, bảo lãnh...) và hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua các công ty con hoặc chính danh mục đầu tư của mình.
Kết luận
Hiện tại, mặc dù có nhiều thông tin tốt đối với ngành ngân hàng nhưng cổ phiếu các ngành vẫn chưa xuất hiện dấu hiệu khởi sắc. Nguyên nhân của việc này có thể được lý giải do nhà đầu tư hiện đang tập trung vào những ngành sớm khôi phục sau khủng hoảng kinh tế như ngành thủy sản, vật liệu xây dựng... Tiềm năng tăng trưởng của ngành tài chính - ngân hàng là điều không thể phủ nhận khi mà nền kinh tế đang hồi phục ngày càng mạnh mẽ. Có thể những diễn biến trong ngắn hạn không được thuận lợi nhưng trung và dài hạn thì lại rất hấp dẫn. Điều mà các nhà đầu tư cần chú ý lúc này là phải biết lựa chọn ngân hàng nào thực sự tiềm năng để đầu tư.
Nguyễn Quang Minh
|