Tháng 4: Mua khi nhiều tin xấu đã ở cuối chu kỳ
(Vietstock) - Trong tháng 3, chúng ta đã chứng kiến một đợt dịch chuyển khá mạnh của nhiều cổ phiếu, đặc biệt là penny-stock, sau khi các tin tức lợi nhuận và chia thưởng cổ phiếu, cổ tức… được công bố. Trong khi đó, nhóm blue-chip được nâng đỡ khá mạnh bởi khối ngoại vào những ngày cuối tháng 3. Đầu tháng 4, khối ngoại vẫn đang tích cực mua vào khá mạnh. Tính từ đầu năm đến ngày 02/4, tổng giá trị mua ròng của khối ngoại đã đạt đến 2,653 tỷ đồng trên HoSE, bằng 80% của cả năm 2009.
Tâm lý nhà đầu tư trong nước nhìn chung vẫn còn cẩn trọng, với lo ngại các phiên bulltrap lặp lại. Các rủi ro và định hướng chính sách vĩ mô chưa rõ ràng cũng khiến giới đầu tư ngập ngừng. Tuy vậy, liệu các tin xấu và rủi ro vẫn còn đang tồn tại dai dẳng và tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến TTCK? Đánh giá lại một số rủi ro vĩ mô và nhóm cổ phiếu tiềm năng sẽ giúp có chiến lược đầu tư phù hợp trong tháng 4.
Trên thực tế, việc mua vào khi các tin xấu đang đi vào giai đoạn cuối là một chiến lược đầu tư có thể đem lại hiệu quả, đặc biệt là khi thị trường đã đi ngang và tích lũy trong một thời gian dài.
Đánh giá lại rủi ro kinh tế vĩ mô
GDP của Việt Nam trong quý 1 tăng trưởng 5.83%, tuy giảm so với mức 2 quý trước đó nhưng vượt xa so với mức tăng 3.1% của cùng kỳ năm trước. Sản xuất công nghiệp và hoạt động bán lẻ cũng tăng trưởng khá mạnh, lần lượt ở mức 13.6% và 14.4% so với cùng kỳ năm trước. Những số liệu này cho thấy kinh tế trong nước tiếp tục thể hiện sự phục hồi khá mạnh, bất chấp một số lo ngại gần đây về các rủi ro vĩ mô như thâm hụt thương mại, tỷ giá và lạm phát.
Thâm hụt thương mại: Nhập siêu trong quý 1 đã lên đến 3.5 tỷ USD, bằng 24.8% xuất khẩu và vượt xa mục tiêu 20% của chính phủ. Tuy vậy, mức tăng mạnh nhập siêu trong tháng 3 cũng chưa hẳn là một điều đáng quan ngại. Cơ cấu hàng nhập khẩu đang cho thấy những dấu hiệu tích cực, khi nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị đều tăng mạnh. Sức ép thực sự của nhập siêu lên tỷ giá hiện tại vẫn chưa nhiều vì FDI giải ngân và kiều hối trong quý 1 đủ bù đắp. Bên cạnh đó, nếu không tính hơn 1 tỷ USD do hoạt động tái xuất khẩu vàng đột biến trong quý 1/2009, thì xuất khẩu quý 1/2010 vẫn tăng 8.7%.
Lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 tăng 0.75% so với tháng 2/2010, và tăng 9.46% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức tăng này cao hơn nhiều so với cùng kỳ những năm gần đây (trừ 2008). Tuy vậy, khi xem xét kỹ có thể thấy mức tăng này chưa hẳn là quá lo ngại. CPI tháng 3 tăng mạnh do tác động của một loạt các yếu tố về chi phí đẩy và cầu kéo. Trong đó, đáng chú ý là chu kỳ thống kê CPI tháng 3 (chốt số liệu khoảng 15 hàng tháng) vào đúng thời kỳ sau Tết âm lịch. Không những vậy CPI tháng 3 còn chịu tác động của một loạt các yếu tố như điều chỉnh tỷ giá, tăng giá xăng dầu, than, điện và sự biến động giá cả một số hàng hóa trên thế giới.
Một phân tích trước đây của chúng tôi cho thấy lạm phát năm 2010 có thể sẽ dưới 9%, nếu chính phủ duy trì kỷ luật về chi tiêu ngân sách, kiểm soát chặt hơn việc đầu tư và các khoản hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, NHNN cũng cần kiểm soát tăng trưởng tín dụng và cung tiền ở mức vừa phải, theo chúng tôi là dưới 30%.
Thị trường tín dụng: Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 trong quý 1/2010 lần lượt đạt 3.34% và 2.35% so với đầu năm và đã giảm khá mạnh so với cùng kỳ những năm trước. Chúng tôi cho rằng mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền thấp này sẽ giúp giảm bớt sức ép đối với lạm phát trong những tháng sắp tới. Ngoài ra, tăng trưởng tín dụng cũng cho thấy sự mất cân đối giữa nội tệ và ngoại tệ (tín dụng bằng nội tệ tăng không đáng kể, trong khi bằng ngoại tệ lại tăng đến 14.07%).
Cùng với việc dư địa tín dụng còn gần 22% cho 8 tháng còn lại, nhiều khả năng NHNN sẽ thực hiện chính sách nởi lỏng tiền tệ và cung tiền nhiều hơn cho thị trường trong quý 2. Tuy vậy, như đề cập ở trên, một sự nới lỏng quá mức đối với chính sách tiền tệ có thể tạo áp lực lên lạm phát trong năm 2010. Chúng tôi nghiêng về khả năng NHNN sẽ nới lỏng nhẹ, và cơ quan này có thể bắt đầu trong tháng 4 bằng việc tăng thêm cung tiền qua thị trường mở.
Chúng tôi cho rằng rủi ro vĩ mô đáng quan ngại của nền kinh tế hiện nay là ở mức thâm hụt ngân sách, do phải thực hiện chính sách kích cầu trong năm 2009. Bội chi ngân sách trong quý 1 lên tới 11.1 nghìn tỷ đồng bằng 3.05% so với GDP của quý 1 và 12.21% so với thu ngân sách. Bên cạnh đó, rủi ro nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thời hậu khủng hoảng và kích thích kinh tế cũng là một hệ lụy đáng quan tâm. Hai chủ đề này rõ ràng chỉ có thể được cải thiện trong dài hạn. Trong khi đó các rủi ro trong ngắn hạn như đề cập ở trên là không quá đáng lo ngại.
Cơ hội đầu tư ở một số nhóm cổ phiếu
Ngành |
P/E 09 |
P/B 09 |
ROE 09 |
EPS 2010 |
P/E F 2010 |
Bất động sản |
16.32 |
3.85 |
23.6% |
5,041 |
12.90 |
SX Cao su |
11.85 |
2.69 |
22.7% |
5,410 |
8.23 |
Vận tải - Kho bãi |
10.74 |
1.61 |
15.0% |
4,427 |
6.08 |
Ngân hàng |
10.51 |
2.18 |
20.8% |
2,877 |
11.20 |
Toàn bộ thị trường |
11.95 |
2.37 |
19.8% |
3,988 |
9.49 |
Nguồn: VietstockFinance | |
(1) Ngành ngân hàng: Chúng ta đang ở giai đoạn mà thông tin xấu liên quan đến lĩnh vực tài chính – tiền tệ là khá phổ biến. Chất lượng tài sản làm xấu đi bảng cân đối kế toán, tăng trưởng tín dụng quý 1 ở mức thấp ảnh hưởng đến doanh thu tín dụng. Việc đóng cửa sàn vàng, hay hoạt động đầu tư tài chính khi TTCK khó khăn cũng ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập của các ngân hàng. Rủi ro thanh khoản cũng là một chủ đề đáng quan tâm hiện nay.
Tuy vậy, vấn đề cạnh tranh lãi suất, thanh khoản căng thẳng tỏ ra phổ biến hơn các ngân hàng nhóm 3 (ngân hàng có quy mô nhỏ, ngân hàng nông thôn mới chuyển đổi). Việc các ngân hàng này phải tăng vốn điều lệ lên 3,000 tỷ đồng vào cuối năm nay cũng tạo ra nhiều áp lực lớn. Có thể một sự sắp xếp lại (consolidation) sẽ sớm diễn ra ở nhóm này.
Cần để ý rằng những hệ lụy trên đây chủ yếu phát sinh từ giai đoạn nền kinh tế rơi vào trì trệ sau khủng hoảng. Những diễn biến trên thị trường tiền tệ trong thời gian tới là mấu chốt để thúc đẩy hoạt động ngân hàng và đặc biệt TTCK (sau đó thậm chí các ngân hàng cũng được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của TTCK). Với kỳ vọng chính sách tiền tệ sẽ được nới lỏng trong quý 2, chúng tôi tin rằng những tác động tích cực này sẽ đến trong tương lai gần.
Thời gian qua, lãi suất huy động ở một số ngân hàng lớn không còn duy trì ở mức cao, và đặc biệt lãi suất cho vay thỏa thuận đang có xu hướng giảm xuống còn 15-16%. Ngoài sự cân nhắc từ phía doanh nghiệp, đây là một chỉ dấu quan trọng cho thấy vấn đề thanh khoản đang dần được cải thiện.
Việc lãi suất đang trên đường dịu lại sẽ sớm giúp tín dụng lưu thông trở lại và giúp ngân hàng cải thiện lĩnh vực kinh doanh chủ chốt này. Đối với vấn đề rủi ro thanh khoản, chúng tôi tin rằng các ngân hàng TMCP nhóm 2 đang có nhiều lợi thế hơn. Trong khi đó, áp lực sụt giảm lợi nhuận lãi biên ở các ngân hàng Việt Nam là không quá lớn do “quyền lực của nhà cung cấp” (supplier power) trong ngành vẫn ở mức cao.
Thực tế là giá cổ phiếu ngân hàng gần như đi ngang trong sáu tháng qua. Rất có thể thời gian tích lũy đã đi vào giai đoạn cuối. Đối với trường phái đầu tư “mua vào khi tin xấu”, đây có thể là thời điểm tốt trong năm 2010 để bắt đầu tích lũy cổ phiếu ngân hàng tiềm năng. Và một gợi ý là các ngân hàng TMCP thuộc nhóm 2.
(2) Ngành vận tải biển và dịch vụ cảng: Mức giá cước vận tải hàng rời đã ở mức thấp khá lâu và gần đây đã có dấu hiệu cải thiện nhờ vào nhu cầu vận chuyển các mặt hàng như gạo, cà phê... tiếp tục ổn định. Hoạt động vận tải hàng lỏng vẫn duy trì ổn định trong thời gian qua, và sẽ cải thiện khi nhu cầu sử dụng năng lượng trong giai đoạn kinh tế phục hồi tăng lên. Trong khi đó, thị trường vận tải container bắt đầu nóng trở lại trong cuối quý 1/2010. Tình hình xuất khẩu hàng hóa đi các nước Châu Âu và Mỹ gia tăng thời gian qua làm cho nhu cầu tăng vọt. Một số hãng tàu nước ngoài đã phải nâng sản lượng vận chuyển lên gấp 3 lần so với trước đây. Rất có thể suy thoái trong ngành vận tải biển đã chạm đáy và bắt đầu vào chu kỳ hồi phục.
Rủi ro lớn nhất của ngành này hiện nay vẫn là năng lực thấp và độ tuổi cao của đội tàu khiến cho vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp bị hạn chế. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong ngành đều sử dụng nợ vay cao nên sẽ gặp phải khó khăn khi mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong giai đoạn vừa qua. Một số doanh nghiệp bán tàu nhưng chưa tái đầu tư sẽ mất đi cơ hội lớn khi nhu cầu hồi phục trở lại.
Tình trạng cung không đủ cầu cảng nước sâu ở hai khu vực kinh tế sôi động cả nước là Tp.HCM và Hải Phòng vẫn tiếp tục diễn ra. Các doanh nghiệp nước ngoài mở thêm tuyến vận tải quốc tế mới từ Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dịch vụ kho bãi phát triển.
(3) Ngành bất động sản: Tăng trưởng tín dụng ở mức thấp trong những tháng đầu năm 2010 có thể gây một số khó khăn tạm thời trong ngành. Tuy nhiên, dòng tiền dành cho thị trường bất động sản có thể sẽ được khơi thông vào quý 2/2010 khi chính sách tiền tệ được nới lỏng nhẹ.
Là một trong những ngành được hưởng lợi khá nhiều từ chính sách kích thích kinh tế của chính phủ trong năm 2009, và ưu thế này được kéo dài sang quý 1/2010. Chúng tôi tin rằng BCTC của các doanh nghiệp trong ngành tiếp tục cho thấy kết quả kinh doanh lạc quan trong quý 1/2010. Tuy vậy, sự biến động của nhóm cổ phiếu bất động sản trong tháng 4 sẽ chọn lọc hơn phụ thuộc nhiều vào tính chất của dự án và sức mạnh dòng tiền của doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số phân khúc sẽ có lợi thế nhất định. Ưu tiên trong thời gian tới có lẽ là phân khúc bất động sản công nghiệp. Phân khúc này dự báo vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh tốt trong năm 2010 nhờ vào nhu cầu khá lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và giá thuê đất đang ở mức chấp nhận được. Ngoài ra, nguồn FDI quay trở lại sau khủng hoảng cũng khiến nhu cầu thuê mặt bằng sản xuất tăng mạnh.
Lựa chọn ưa thích tiếp theo của chúng tôi là những công ty có hoạt động kinh doanh bất động sản thương mại, nhờ nhu cầu cao đi liền với sự tham gia thị trường của các thương hiệu quốc tế và việc mở rộng của các nhà bán lẻ trong nước. Trong khi đó, phân khúc văn phòng cho thuê có thể tiếp tục chứng khiến sự canh tranh gay gắt khi nguồn cung dự kiến sẽ tăng nhanh hơn so với nhu cầu thực tế. Nhu cầu ở phân khúc đất nền và căn hộ thường sẽ chỉ hồi phục theo sau sự nới lỏng của tín dụng và chính sách tiền tệ.
(4) Ngành cao su thiên nhiên: Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy sản lượng xuất khẩu cao su quý 1/2010 đã đạt 123 ngàn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó kim ngạch tăng 100% so với cùng kỳ, đạt 333 triệu USD nhờ giá xuất khẩu đang ổn định ở mức cao (trung bình khoảng 2,700 USD/tấn cao gần 100% so với thời kỳ này năm trước).
Một số công ty trong ngành như PHR và DPR lần lượt đạt đạt 67.5 tỷ đồng và 48.7 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế trong 2 tháng đầu năm 2010. Như vậy, cả 2 công ty đều đã hoàn thành hơn 20% kế hoạch năm ngay trong mùa thấp điểm. Quý 1 là mùa cây cao su thay lá và thường có sản lượng thấp nhất năm. Vụ khai thác mới sẽ bắt đầu từ tháng 4 và hoàn toàn có lý để kỳ vọng vào một sự tăng trưởng mạnh ở các doanh nghiệp trong ngành trong quý 2/2010.
Chúng tôi cho rằng khả năng giá cao su xuất khẩu giảm mạnh như những tháng đầu năm 2009 là rất khó xảy ra, do nền kinh tế thế giới đang hồi phục tích cực và nguồn cung bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, từ đầu năm 2010 Việt Nam đã tham gia vào Hội đồng Cao su ba bên quốc tế (ITRC). Cùng với Malaysia, Indonesia và Thái Lan, 4 thành viên của hiệp hội này chiếm đến 76% sản lượng và 93% thị phần của toàn thế giới. Với sản lượng và thị phần chi phối, ITRC sẽ giúp điều phối sản lượng và giá cao su xuất khẩu, ngăn chặn được đà giảm giá nếu xảy ra.
Rủi ro lớn nhất lúc này của ngành cao su thiên nhiên Việt Nam là yếu tố thời tiết không thuận lợi, đặc biệt là khô hạn nếu xảy ra sẽ làm giảm lượng mủ khai thác. Nhiều dự báo cho rằng thời tiết năm 2010 của Việt Nam sẽ không quá bất lợi như ở Thái Lan và Malaysia làm gia tăng kỳ vọng về sự ổn định trong ngành này. Một câu hỏi khác mà chúng ta cũng cần quan tâm là bao giờ khẩu vị của nhà đầu tư mới quay trở lại với nhóm ngành nguyên liệu cơ bản tiềm năng này?
(5) Ngành thép: Giá bán tăng, doanh nghiệp có hàng tồn kho nhiều được lợi. Từ đầu tháng 3 đến đầu tháng 4/2010, giá thép bán lẻ trên thị trường Hà Nội tăng hơn 3 triệu đồng/tấn, lên tới 16 triệu đồng/tấn. Như vậy, trung bình cứ 2-3 ngày, thép tăng khoảng từ 300,000- 500,000 đồng/tấn. Đây là mức tăng kỷ lục trong thời gian qua, hơn cả đợt tăng mạnh của giá thép vào giữa năm 2009.
Yếu tố tác động mạnh nhất trong đợt tăng lần này là do giá phôi thép và thép phế thế giới đang tăng mạnh và chưa thấy có dấu hiệu hạ nhiệt. Ngành xây dựng cũng đang vào mùa khiến cho nhu cầu tăng vọt, cùng với hoạt động đầu cơ khiến giá thép trong thời qua tăng giá cao.
Mặc dù lượng tồn kho của các doanh nghiệp là khá lớn, khoảng 66,000 tấn thép thành phẩm và phôi nhưng giá thép đã tăng mạnh trong tháng 3. Dự báo trong tháng 4/2010 giá thép có thể tăng thêm ít nhất 10%. Chúng tôi cho rằng cổ phiếu ngành thép sẽ có một đợt sóng trong quý 2/2010.
Kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp có lượng hàng tồn kho lớn sẽ được cải thiện đáng kể. Các doanh nghiệp có quy trình sản xuất phôi thép có nhiều lợi thế lớn so với các doanh nghiệp thương mại.
Với thực tế chính sách tiền tệ chỉ có thể nới lỏng chút ít trong tháng 4 và quý 2, rất có thể thị trường sẽ khó có những đợt phục hồi dài và mạnh mẽ. Cùng với việc đầu tư ngắn hạn đang trở nên phổ biến, chiến lược chốt lời ngắn hạn khi đã đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng tương đối có lẽ sẽ phù hợp hơn.
Phòng Nghiên cứu Vietstock
|