Sức ép tăng lãi suất
Thanh toán đã ổn định, nhiều ngân hàng đang cố gắng huy động vốn với kỳ hạn dài hơn nhưng không dễ dàng. Sức ép tăng lãi suất đang gia tăng.
Hồi đầu tháng 3, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã công bố sẽ phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn từ 1 năm trở lên với lãi suất lên tới trên 9%/năm. Một vị lãnh đạo Ngân hàng Công Thương (Vietinbank) đã đôi chút ngạc nhiên và cho rằng mức lãi suất như vậy là hơi cao.
Trải qua gần hai tháng phát hành, tới nay, một vị lãnh đạo ngân hàng BIDV cho biết, không nhiều người mua chứng chỉ tiền gửi. Tới ngày 15/4, sau khi cân nhắc tình hình thị trường, VietinBank cũng bắt đầu phát hành chứng chỉ tiền gửi đợt 1 năm 2009 từ ngày 15-4. Khoảng 6.000 tỉ đồng có kỳ hạn 6, 9, 12, 24 và 36 tháng đã được chào bán với lãi suất từ 7,9 - 9%/năm.
Kết quả là tới nay, chứng chỉ tiền gửi loại trên 12 tháng cũng bán rất chậm. Trả lời Doanh Nhân, vị lãnh đạo Ngân hàng Vietinbank tỏ ra khá thất vọng: “Có lẽ lãi suất phải tăng lên tới 10%/năm mới thu hút được người mua”.
Thừa chỗ này, thiếu chỗ kia
Di chứng của những đợt biến động lãi suất trong năm 2008 đã khiến kỳ hạn tiền gửi trung bình tại các ngân hàng giảm rất mạnh. Những cuộc đua lãi suất đã khiến người gửi tiền luôn có xu hướng chọn gửi tiền các kỳ hạn ngắn để có thể linh hoạt chuyển sang nơi gửi tiền có lãi suất cao hơn.
Vị lãnh đạo BIDV cho biết, hiện nay kỳ hạn tiền gửi trung bình của ngân hàng này là khoảng 6 tháng. Nếu so với mức kỳ hạn tiền gửi trung bình 9 tháng của đầu năm 2008, khoảng cách vẫn còn khá xa. “Chúng tôi là ngân hàng thương mại nhà nước, tiền gửi doanh nghiệp chiếm phần lớn hơn mà còn thấp như vậy thì không hiểu các ngân hàng khác như thế nào!”, vị lãnh đạo của BIDV ta thán.
Kỳ hạn tiền gửi giảm xuống trong khi kỳ hạn của các khoản đã cho vay không giảm tương ứng có thể khiến ngân hàng chịu rủi ro kỳ hạn, nghĩa là các khoản phải trả tới hạn trong khi các khoản cho vay chưa thu hồi được.
Hiện nay, tình trạng thiếu vốn ngắn hạn của các ngân hàng đã được giải quyết. Giao dịch của thị trường liên ngân hàng khá trầm lắng. Nhiều ngân hàng cổ phần nhỏ trước đây vẫn thường xuyên phải vay vốn liên ngân hàng thì nay thậm chí còn chào cho vay. Nhưng đó là thừa vốn ngắn hạn.
Trong bốn tháng đầu năm, trong khi huy động vốn bằng tiền đồng tăng tới gần 8% trong khi tín dụng bằng tiền đồng chỉ tăng 5,81%, nghĩa là hiện hệ thống ngân hàng không thiếu tiền.
Trao đổi với Doanh Nhân, một vị lãnh đạo ngân hàng Eximbank thừa nhận rằng, huy động vốn dài hạn từ 12 tháng trở lên là rất khó khăn. “Năm nay, thanh khoản của hệ thống đã tốt hơn nhưng vấn đề thừa vốn ngắn hạn, thiếu vốn dài hạn mới là bài toán khó giải”, ông cho biết. Điều này giải thích cho động thái của nhiều ngân hàng trong thời gian gần đây đồng loạt tăng lãi suất mạnh mẽ chủ yếu ở các kỳ hạn dài trên 12 tháng.
Trong khi đó, nhu cầu vay vốn trung và dài hạn chắc chắn sẽ còn tăng. Gói kích cầu của Chính phủ đã mở rộng ra áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn của doanh nghiệp từ đầu tháng 4-2009. Về vấn đề này, ông Nguyễn Thanh Toại, Phó tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho biết, sức ép sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn sẽ tăng thêm. Năm nay, kế hoạch của ACB chỉ dành khoảng 10.000 tỉ đồng cho vay dài hạn.
Trong khi đó, Quyết định 457 của NHNN chỉ cho phép các ngân hàng sử dụng 40% vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Ông Trương Hoàng Lương, Tổng Giám đốc Ngân hàng cổ phần Kiên Long bình luận rằng, tỷ lệ này sẽ đặt nhiều ngân hàng vào thế khó. NHNN đang tăng cường thanh tra kiểm soát. Đúng là rất khó!
Sức ép tăng lãi suất gia tăng
Hồi đầu tháng 8 - 2008, sau khi bắt đầu âm thầm giảm lãi suất huy động mỗi tuần 0,1%/năm, một NHTM cổ phần cỡ lớn tại TPHCM đã mất hơn 1.000 tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm chỉ sau hai tuần. Nhắc lại câu chuyện này để thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với việc thay đổi lãi suất huy động, dù là mức giảm nhỏ.
Từ đầu năm 2009, sau những cân nhắc về việc giảm thêm lãi suất cơ bản và bị nhiều ngân hàng phản đối, NHNN đã giữ nguyên mức lãi suất cơ bản là 7%. Tới thời điểm này, nhiều ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước đã bắt đầu đề cập tới việc tăng lãi suất cơ bản.
Thực ra, các chuyên gia ngân hàng đều đã nhận ra rằng, mức lãi suất đầu năm 2009 đã là điểm đáy lãi suất. Xu hướng tăng lãi suất chỉ là sớm hay muộn. Bản thân việc các ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn dài hạn không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn. “Lãi suất sẽ tăng trở lại, có thể là từ cuối năm nay. Do đó nếu huy động được vốn dài hạn vào thời điểm này sẽ có lợi trong thời gian tới”, ông Lương nhận định.
Có nghĩa là lãi suất ngân hàng đang ở mức thấp và niềm tin lãi suất sẽ tăng đã là lý do đủ để người gửi tiền chọn những kỳ hạn ngắn. Khi được hỏi, hầu hết các ngân hàng đều cho biết người gửi tiền thường chọn kỳ hạn dưới 6 tháng.
Ngân hàng đang rất cần vốn kỳ hạn dài hơn 12 tháng. Ngoài mục đích cho vay doanh nghiệp, có những kênh rót vốn khác hấp dẫn hơn nhiều. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp có thể lên tới 12 - 15%/năm trong khi nhiều ngân hàng đang cho vay tiêu dùng với lãi suất 15 - 17%/năm. Đây mới là những kênh đầu tư mang lại lợi nhuận cao và nhiều ngân hàng đang đẩy mạnh rót vốn vào hai kênh này.
Xin nhắc lại, việc tăng lãi suất huy động chỉ là vấn đề thời gian. Ông Lương nhận định thời điểm tăng là cuối năm nay, nhưng chính sách tiền tệ và nguồn vốn của các ngân hàng luôn biến động khó đoán trước. Hãy chờ xem.
TP.HCM tái khởi động dự án thị trường tài chính
Ban chỉ đạo phát triển thị trường tài chính trên địa bàn TPHCM vừa qua đã được thành lập cùng với Tổ công tác và Tổ chuyên viên để tác nghiệp, tập trung nghiên cứu Chương trình phát triển thị trường tài chính trên địa bàn thành phố.
Ông Nguyễn Thiềng Đức, Phó Viện trưởng viện Nghiên cứu Phát triển, đơn vị điều phối cho biết, Ban chỉ đạo sẽ họp để đề ra được đề án phát triển trung tâm tài chính cho Thành phố. Trước mắt trong giai đoạn 2008-2010, cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa UBND TPHCM với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Sở giao dịch Chứng khoán và các hiệp hội trong ngành tài chính về cung cấp thông tin, tham vấn chính sách, trách nhiệm phối hợp với các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và hỗ trợ.
Hiện nay, tỷ trọng của thị trường dịch vụ tài chính chỉ chiếm khoảng 6% GDP của TPHCM, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển và nhu cầu thực tế. Dự kiến đến năm 2010, giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán Thành phố so với GDP sẽ là 25% vào năm 2010 và 100% vào năm 2020.
Đề án phát triển thị trường tài chính đã được UBND TPHCM hoàn thành vào năm 2005 nhưng bị gác lại do chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan chính phủ và Thành phố.
Theo kinh nghiệm phát triển của các trung tâm tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới, có hai con đường để một thành phố có thể trở thành một trung tâm tài chính. Đó là phục vụ cho nền kinh tế của họ hoặc là đưa ra chính sách táo bạo để thu hút sự quan tâm của người khác.
Vũ Giang
Diễn đàn Doanh nghiệp
|