Vì sao các công ty Australia ở nước ngoài lại có kết quả kinh doanh không tốt?
Đối với một quốc gia chỉ có 25 triệu dân, Australia hiện đạt nhiều thành tựu về thể thao, khoa học và y khoa. Nhưng nói đến thành công ở nước ngoài, nhiều công ty lớn nhất của đất nước này lại thua xa bạn bè quốc tế.
Từ Tập đoàn Bảo hiểm QBE đến National Australia Bank, giới doanh nghiệp của xứ sở chuột túi đã thua lỗ và bị giảm giá trị ít nhất 6.1 tỷ AUD (khoảng 4.7 tỷ USD) ở nước ngoài chỉ trong vòng chưa đến 2 năm. Ở Anh, công ty Wesfarmers đang cân nhắc về tương lai của doanh nghiệp cải tạo nhà Bunnings sau khi vốn hóa của họ bị “thổi bay” hết 1 tỷ AUD trong tháng 2 vừa qua.
Sự tự tin, thiếu tôn trọng người khác và khó thích nghi – những tính cách được cho là “định hình” nên người Australia trong hàng thế kỷ qua – có thể là một phần của sự thất bại đó, các chuyên gia phân tích hành vi và tư vấn kinh doanh cho biết. Những đặc tính đó, được nuôi dưỡng ở một trong những thị trường tiêu dùng xa xôi nhất và nhỏ nhất của châu Á, có thể khiến cho các công ty Australia không được chuẩn bị tốt để cạnh tranh ở nước ngoài.
“Có một số yếu tố thuộc về văn hóa – người Australia có tính chủ nghĩa cá nhân hơn hầu hết những người khác và họ không thích thú với việc có nhiều quyền lực hơn. Bạn chiếm ưu thế ở thị trường Australia không có nghĩa là bạn chiến thắng ở nước ngoài”, Conor Wynn, người đang nghiên cứu sự thay đổi hành vi tại cơ quan nghiên cứu BehaviourWorks của Đại học Monash ở Melbourne, lên tiếng.
Lịch sử thất bại trên bình diện quốc tế của Autralia trải dài hơn một thập niên qua. Năm 2016, Tập đoàn Multiplex của Australia đã không thể hoàn thành sân vận động Wembley mới của Luân Đôn đúng thời hạn, khiến họ bị mất tiền ở dự án đó, và sau đó là bị ảnh hưởng bởi các rắc rối pháp lý. Năm 2012, Insurance Australia Group đã rút khỏi nước Anh trong thua lỗ, một phần là vì các yêu cầu đòi bồi thường thương tật đã cao hơn dự báo của họ.
Năm 2016, Wesfarmers đã mua lại chuỗi Homebase ở Anh. Tuy nhiên, họ đã thất bại sau khi vội vã áp dụng một cách làm mới khiến khách hàng không còn thích thú nữa, đại diện của Wesfarmers cho hay.
“Thỉnh thoảng bạn thấy một chút ngây thơ trong chuyện doanh nghiệp Australia đặt giả định về các thị trường nước ngoài. Dĩ nhiên là có một danh sách dài các công ty đã gặp khó khăn”, Jeremy Barker, người đứng đầu của EY-Parthenon chi nhánh Australia – một đơn vị tư vấn của Ernst & Young Global, lên tiếng.
Không chỉ có các công ty Australia thất bại ở nước ngoài. DaimlerChrysler AG, nhà sản xuất xe hơi châu Âu trước đây, trong năm 2007 đã giao quyền kiểm soát công ty Chrysler cho Cerberus Capital Management LP.
Tuy nhiên, vì khoảng cách của họ so với các thị trường phát triển nhất và thiếu quy mô ở quê nhà nên các công ty Australia hiện đang đối mặt với những thách thức lạ thường và cần một sản phẩm hoặc mô hình kinh doanh khác biệt để thành công, Barker phân tích. Trái lại, những công ty bán lẻ của châu Âu hay Bắc Mỹ có thể có hàng ngàn cửa hiệu, những mô hình kinh doanh đã được chứng minh là hiệu quả và những cơ cấu phí tổn đã được xác lập trên “sân nhà” của họ trước khi bước ra nước ngoài, ông nói thêm.
Để minh chứng cho điều mình nói, Barker đã đề cập tới “một danh sách khá dài” về những thành công ở nước ngoài của Australia.
Tập đoàn Macquarie đã tận dụng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu để thực hiện một loạt thương vụ thôn tính ở Mỹ, và kể từ đó, cổ phiếu của họ đã tăng hơn 6 lần. Lợi nhuận ở nước ngoài tại công ty Treasury Wine Estates đã nhảy vọt sau khi công ty có trụ ở Melbourne này mở rộng ở Mỹ và châu Á. Nhu cầu toàn cầu dành cho phần mềm của công ty Atlassian Corp có trụ sở ở Sydney đã biến hai nhà sáng lập của họ là Michael Cannon-Brookes và Scott Farquhar thành tỷ phú.
Tuy vậy, các công ty Australia mở rộng một quốc gia nước ngoài cần phải hiểu được thị trường mới đó và những khác biệt về văn hóa của xứ sở đó, Jana Matthews, Giám đốc Trung tâm Tăng trưởng Doanh nghiệp của Australia tại Đại học South Australia, cho hay. Lời khuyên của bà là: Hãy có kiến thức về tăng trưởng và lãnh đạo, và bảo đảm rằng ban giám đốc có một sự cân bằng giới tính vì thường thì phụ nữ là những người đặt ra các câu hỏi thích hợp về khách hàng và thói quen mua sắm của họ.
Nhã Thanh (Theo Bloomberg)
FiLi
|