Đảo nợ: Một vấn đề - nhiều cách hiểu!
Hiện tượng đảo nợ qua vốn vay tín dụng ngân hàng đã được nhìn nhận với nhiều góc độ, trong đó có những cách hiểu có thể làm sai lệch ý nghĩa của việc cho vay hỗ trợ lãi suất.
Hiểu thế nào cho đúng?
Đánh giá về những ý kiến cho rằng phần lớn dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất (HTLS) đã đảo nợ, ông Vũ Duy Thái - Chủ tịch Hiệp hội Công Thương TP.Hà Nội khẳng định: "Nên hiểu cho đúng thế nào là đảo nợ. Nếu là việc đang có nợ quá hạn/hoặc nợ trong hạn lãi suất cao tại 1 NH DN xin vay vốn được HTLS tại chính NH đó để trả nợ cũ thì không NH nào cho vay.
Có thể có một số rất ít DN dạng này tìm cách vay NH này trả NH kia thì họ cũng làm rất khéo khó mà phát hiện. Còn dạng khác cũng có thể tạm coi là đảo nợ nhưng tốt cho DN và nền kinh tế. Đó là việc DN vay được vốn NH lãi suất thấp nên có khả năng thanh toán các khoản nợ cũ (tiền hàng, vốn huy động từ các nguồn khác LS cao...).
Điều này khiến cho việc thanh toán trong nền kinh tế dễ dàng hơn, không để các mối quan hệ thanh toán của DN lâm vào tình trạng bế tắc, phạt vạ lẫn nhau. Nhờ đó mà DN mới có thể bắt đầu chu kỳ sản xuất-kinh doanh mới".
Giám đốc một chi nhánh NHCT cho rằng nếu thấy doanh số và dư nợ cho vay HTLS lớn hơn tốc độ tăng dư nợ mà cho đó là đảo nợ (theo nghĩa tiêu cực) là chưa hiểu đúng quan hệ vay trả.
Theo ông này, vòng quay của vốn lưu động thường nhanh, đặc biệt là các DN kinh doanh thương mại-dịch vụ. Còn các DN kinh doanh trong lĩnh vực BĐS, họ cũng có những nguồn vốn được thanh toán (từ ngân sách, chủ đầu tư, đối tác...) về để trả nợ NH. Nên việc khách hàng vay-trả-vay... tạo nên doanh số và dư nợ cho vay HTLS lớn hơn tốc độ tăng dư nợ là chuyện bình thường.
Một chuyên gia tài chính nói: "Nhìn chung các NHTM rất cảnh giác với vay đảo nợ vì sẽ không đảm bảo cho sự quay về của đồng vốn cho vay, là nguy cơ sâu xa làm gia tăng nợ xấu, làm sai lạc báo cáo tài chính vì khoản nợ có vấn đề đã được che đậy bằng nợ mới, rất dễ dẫn tới NH cho vay bị mất khả năng thanh toán do không thu hồi được nợ".
Ứng xử của DN
Từ năm 2008 đến gần đây, DN trong cả nước lâm vào tình trạng hàng tồn kho lớn. Nhiều DN xuất khẩu hàng hóa, bán hàng mà không thể thu tiền về. Nhiều khoản đầu tư tài chính bị suy giảm giá trị không thể bán nhanh để có nguồn tiền nhằm thanh toán các khoản nợ đến hạn, trả lương công nhân và làm các nghĩa vụ khác... Nhu cầu vốn vay cho chu kỳ sản xuất mới trong lúc này chỉ trông mong vào vốn vay NH.
Đúng ra khi suy thoái kinh tế xảy ra, DN không nên làm tăng đòn cân nợ (tăng nợ vay). Nếu tăng, DN sẽ đối diện với rủi ro thanh khoản rất lớn. Ngược lại cần làm cho đòn cân nợ giảm để có điều kiện tránh nguy cơ phá sản do còn đảm bảo khả năng thanh toán. Bên cạnh đó DN cần phải đàm phán với các chủ nợ để hoãn/dãn/ hay cơ cấu lại nợ nhằm chủ động trong việc trả nợ phù hợp với khả năng dòng tiền thu về mà DN có thể có trong tương lai.
Thế nhưng, thực tế nhiều DN lại coi điều quan trọng trước mắt là giảm chi phí, việc này được xem trọng hơn là đảm bảo khả năng thanh toán và duy trì uy tín của DN trong quan hệ tín dụng. Đây là sự nhầm lẫn tai hại. Chính vì muốn giảm chi phí, DN tìm nhiều cách có thể vay tiền mới để trả nợ cũ. Với DN điều này là có lợi và hợp lý, nhưng với toàn xã hội thì khi DN giảm được chi phí, sẽ làm cho áp lực bán hàng tồn kho của DN cũng giảm theo, gián tiếp làm cho một nguồn vốn bị đọng lại trong hàng hoá, chậm luân chuyển, trong khi việc duy trì sản xuất không đạt được, người lao động vẫn bị thất nghiệp...
Suy thoái kinh tế là lúc rủi ro tín dụng NH cao nhất, trong bối cảnh môi trường kinh doanh bất ổn, giới NH sẽ xem xét các khoản vay với những tiêu chí khắt khe hơn nhằm đảm bảo sự quay về của vốn đã cho vay ra, từ đó NH cũng đảm bảo được nguồn thu để trả cho các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản chi cho hoạt động của mình.
Trong hoàn cảnh hiện nay, để vực dậy nền kinh tế thì tín dụng NH chỉ là một giải pháp chứ không phải là cứu tinh duy nhất mà DN có thể trông đợi. Muốn thoát khỏi tình trạng suy giảm, từng DN phải xây dựng cho được chính sách kinh doanh hợp lý, phù hợp với cơ cấu tài chính mà DN dự kiến có thể có được, nâng cao khả năng quản trị điều hành chung kết hợp với công tác dự báo thị trường thì đó mới là những giải pháp thiết thực nhất và mang tính lâu dài cho DN phát triển, chứ không phải tìm cách "đảo nợ" chỉ làm giảm được phần nào chi phí nhưng lại không loại bỏ được thực chất những rủi ro mà DN đang đối diện.
Trịnh Ngọc Lan
lao động
|