Để hiểu về lạm phát, lãi suất và rủi ro suy thoái, các chuyên gia đã quay trở lại trước những năm 2000 và tìm ra điểm khác biệt trong nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nhiều lần khiến các chuyên gia bối rối. Hầu như không ai kỳ vọng lạm phát sẽ tăng cao và lãi suất sẽ tăng nhanh như vậy trong thời gian qua.
Vậy điều gì đã thay đổi?
Nếu so sánh chu kỳ kinh tế hiện tại với những năm 2000, có thể thấy nền kinh tế về cơ bản có sự chuyển biến. Các chuyên gia cũng dần lý giải được chu kỳ hiện tại khi mở rộng phạm vi đánh giá tới 80 năm trước, song họ vẫn rất khó dự đoán, theo Wall Street Journal.
Cung quan trọng hơn cầu?
Trong nhiều thập kỷ, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ nhờ khai thác lao động, vốn, công nghệ và kiến thức. Nhưng những yếu tố này thay đổi dần dần, do đó các nhà kinh tế phần lớn bỏ qua chúng khi dự báo tăng trưởng và lạm phát ngắn hạn.
Thay vào đó, họ tập trung vào cầu: Các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước ngoài muốn chi tiêu bao nhiêu. Khi cầu mạnh, áp lực tăng trưởng và lạm phát tăng lên, và ngược lại.
Các nhà kinh tế càng chú trọng đến cầu nhiều hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2009 khi các ngân hàng và hộ gia đình kiềm chế chi tiêu, vay mượn để giảm nợ, giúp tăng trưởng và lạm phát dịu đi mặc dù lãi suất gần như bằng không.
Tuy nhiên, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào năm 2020, nguồn cung cũng có vai trò quan trọng như cầu trong việc định hình chu kỳ kinh tế, thậm chí là quan trọng hơn.
Các nhà kinh tế thường tập trung vào cầu khi dự báo tăng trưởng và lạm phát ngắn hạn. Ảnh: AP/Wildredo Lee.
|
Việc phong tỏa và tái mở cửa đã hạn chế nghiêm trọng sản lượng của nhiều ngành, từ vận chuyển đến sản xuất ôtô. Khi các công ty thuê lại nhân viên từng sa thải, họ nhận thấy nhiều người đã rời bỏ lực lượng lao động vì Covid-19, chăm sóc trẻ em, nghỉ hưu sớm và di cư. Tuần trước, Fed ước tính mức thiếu hụt lao động trong quý IV lên tới 3,5 triệu so với trước đại dịch.
Trong khi nhu cầu giảm gây áp lực giảm lạm phát, nguồn cung giảm lại dẫn đến điều ngược lại. Do đó, khi cầu phục hồi với sự trợ giúp của các gói kích thích tài chính và tiền tệ dồi dào vào năm 2021, nguồn cung hạn chế là lý do tiền lương và giá cả tăng nhanh hơn nhiều so với sau các cuộc suy thoái trước đó.
“Đại dịch đã mang đến rất nhiều lần đầu tiên. Chưa ai từng chứng kiến chuỗi cung ứng sụp đổ và sự tham gia của lực lượng lao động giảm mạnh”, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell phát biểu trước Quốc hội hôm 8/3.
Song đây không phải lần đầu tiên. Việc mất nguồn cung dầu góp phần gây ra lạm phát và suy thoái vào năm 1973 và 1980. Lạm phát cũng tăng mạnh sau khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945 và Chiến tranh Triều Tiên bắt đầu vào năm 1950, khi ngành công nghiệp vật lộn thích ứng với sự chuyển đổi giữa nhu cầu quân sự và dân sự.
Tuy nhiên, khi nguồn cung phục hồi, lạm phát sẽ giảm và các dấu hiệu đang dần hiện rõ. Thông thường, khi số lượng việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng vì cả hai đều phản ánh nhu cầu lao động giảm.
Vào tháng 1, tỷ lệ tuyển dụng và tỷ lệ thất nghiệp đều giảm - một dấu hiệu cho thấy nguồn cung lao động đang tăng lên, giúp tình trạng thiếu nhân lực ít nghiêm trọng hơn.
Lạm phát quá cao
Các nhà lập pháp đảng Dân chủ tuần này hỏi ông Powell tại sao Fed vẫn tăng lãi suất khi các chuyên gia dự báo tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,4% lên 4,6% trong năm nay - mức độ thường chỉ thấy trong suy thoái kinh tế.
Hạ nghị sĩ Ayanna Pressley cáo buộc ông Powell đang “tạo ra suy thoái” bằng cách tăng lãi suất để giảm lạm phát, theo Washington Times.
“Để ngăn chặn suy thoái kinh tế, ông Powell có định tạm dừng các đợt tăng lãi suất trong tương lai không?”, Hạ nghị sĩ Ayanna Pressley hỏi. Ông Powell từ chối trả lời.
Theo Wall Street Journal, đây là câu hỏi dễ hiểu vì 25 năm trước, Fed không chỉ ngừng tăng lãi suất mà còn cắt giảm lãi suất khi tỷ lệ thất nghiệp tăng. Nhưng trong khoảng thời gian này, lạm phát chỉ dao động trong khoảng 1-3%. Điều này có nghĩa Fed không cần phải đẩy tỷ lệ thất nghiệp cao hơn để giảm lạm phát xuống mức mục tiêu 2% vào năm 2012.
Song sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp không bao giờ biến mất. Chẳng hạn vào năm 1973 và 1981, Fed đã gây suy thoái để giảm lạm phát. Và lần này, nền kinh tế đang đối mặt với tình huống tương tự
Lạm phát hiện ở mức 4-5% không bao gồm giá lương thực và năng lượng. Nguồn cung cải thiện có thể làm giảm phần nào, nhưng để đạt được mục tiêu 2%, Fed cho rằng nhu cầu cũng phải giảm, tức tỷ lệ thất nghiệp sẽ cao hơn.
Bất chấp các đợt tăng lãi suất mạnh, nền kinh tế thế giới vẫn chưa rơi vào suy thoái. Ảnh: Wall Street Journal/Laura Buckman.
|
Không có suy thoái?
Bất chấp các đợt tăng lãi suất mạnh nhất kể từ những năm 1980, nền kinh tế thế giới vẫn chưa rơi vào suy thoái.
Đó là vì tác động của lãi suất phụ thuộc chủ yếu vào cách chúng lan truyền. Trong những năm 1990 và 2000, đổi mới tài chính, bãi bỏ quy định và toàn cầu hóa đã khiến hệ thống tài chính trở nên mong manh và có xu hướng bùng nổ, phá sản.
Khi thắt chặt chính sách tiền tệ vào năm 1999-2000, Fed đã làm xẹp “bong bóng” cổ phiếu và trái phiếu công nghệ, truyền thông và viễn thông, sau đó hạn chế hoạt động đầu tư kinh doanh và tuyển dụng lao động.
Khi thắt chặt chính sách tiền tệ vào năm 2004-2006, Fed cũng làm xẹp bong bóng nhà đất, dẫn đến làn sóng vỡ nợ thế chấp và một cuộc khủng hoảng tài chính tàn khốc.
Tuy nhiên, cho đến nay, viễn cảnh tương tự vẫn chưa xảy ra. Việc giảm nợ và điều tiết lại sau cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến những người cho vay thận trọng hơn và ít bị tổn thương hơn. Cổ phiếu và tài sản cũng không được định giá quá cao như năm 2000 hay 2006. Các hộ gia đình và doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán tương đối mạnh, một phần nhờ vào các biện pháp kích thích trong thời kỳ đại dịch.
Đúng là tiền điện tử đã sụp đổ, đánh sập các nền tảng không được kiểm soát như FTX và Silvergate Capital. Nhưng đây là những hoạt động tương đối nhỏ, ít liên kết với phần còn lại của nền kinh tế và hệ thống tài chính.
Tất nhiên, chính sách tiền tệ có độ trễ và những quả bom hẹn giờ trong hệ thống tài chính có thể vẫn đang chờ phát nổ. Tuy nhiên, hiện tại, Fed sẽ phải chỉ hoàn thành công việc của mình dựa trên lãi suất.