FTA: hãy lượng sức mình
Theo số liệu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO, tiền thân là GATT), giai đoạn 1948-1994, thế giới có 124 hiệp định thương mại khu vực (RTA), nhưng từ năm 1995 đến nay, đã có thêm hơn 400 RTAs. Số lượng RTA (trong đó chủ yếu là hiệp định thương mại tự do - FTA) tăng nhanh đã thúc đẩy thương mại toàn cầu, nhưng nếu không chuẩn bị tốt, lợi ích được chia sẽ không đồng đều giữa các bên tham gia dù miếng bánh có to hơn.
Việc gia tăng các FTA là tốt cho hoạt động xuất khẩu, nhưng nếu không tính toán kỹ lưỡng, lợi ích ròng từ các FTA sẽ không được như mong đợi, có khi còn bị “việt vị” vì mải tấn công mà quên phòng thủ ở sân nhà. Ảnh: Huỳnh Công Bá
|
Các thỏa thuận thương mại ngày càng nhiều và sâu hơn
Từ sau thất bại ở vòng đám phán Geneva của WTO năm 2008, nhiều nước đã chuyển hướng từ đàm phán đa phương sang các các hình thức khác như FTA, PTA (hiệp định ưu đãi thương mại) và EIA (hiệp định hội nhập kinh tế). Cụ thể, tất cả 164 thành viên hiện nay của WTO đều có ít nhất một RTA, có nước có đến 20 RTAs.
Chỉ riêng khu vực ASEAN, nước ít nhất đã có đến 8 FTA (Campuchia) và nhiều nhất là 33 FTA (Singapore). Đặc biệt, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 6 nước đối tác có FTA với ASEAN (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, và New Zealand), được cho là có tác động rất lớn đến kinh tế khu vực và thế giới.
Mặc dù đã qua 19 vòng đàm phán (vòng gần đây nhất là tháng 7-2017 ở Ấn Độ), nhiều rào cản của RCEP khiến cho thỏa thuận chung cuối cùng khó mà có sớm được, vì độ phức tạp cũng như chiều sâu của các thỏa thuận. Thứ nhất, trong nhóm này, một số nước đã có FTA, trong khi một số nước khác thì không, vì vậy cần nhiều thời gian để có thể thống nhất được các điều khoản chung, dung hòa được lợi ích chung của tất cả các thành viên. Thứ hai, số lượng nước tham gia nhiều (16 nước), với trình độ phát triển khác nhau, với mục đích và các ưu tiên khác nhau. Chẳng hạn, có thể nước chỉ tập trung đến các thỏa thuận về thương mại hàng hóa, có nước lại ưu tiên đến mở cửa về dịch vụ và dịch chuyển tự do của lao động có kỹ năng.
Các FTA thế hệ mới, ngoài các quy định về loại bỏ đa số các dòng thuế, thì còn có các quy định khác ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Chẳng hạn vấn đề doanh nghiệp nhà nước trong cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác (trong đó có doanh nghiệp nước ngoài), quy định về đấu thầu mua sắm của khu vực công, các quy định về quyền lợi người lao động (công đoàn độc lập), môi trường, cũng như trình tự giải quyết các tranh chấp.
Việt Nam cần ước lượng lợi ích ròng từ các FTA
Hiện nay, Việt Nam hiện có tổng cộng 16 FTA (gồm cả đang thương lượng). Có lẽ mong muốn lớn nhất của Việt Nam ở các FTA là tăng khả năng xuất khẩu các nhóm hàng có thế mạnh vào các thị trường mục tiêu. Tuy nhiên, các FTA thế hệ mới, như đã đề cập ở trên, không chỉ là thuế đối với hàng hóa, mà còn bao gồm cả việc cung cấp các dịch vụ và một số ngành nghề. Điển hình như Khung thỏa thuận về dịch vụ của ASEAN (AFAS), các thỏa thuận ghi nhận tương đồng (MRA) sẽ mở cửa hoàn toàn nhiều dịch vụ cơ bản quan trọng, cũng như các ngành thực phẩm, linh kiện ô tô, vật liệu xây dựng.
Nguy cơ khi đó đối với các doanh nghiệp nội địa là rất lớn, chỉ có những doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh nội tại mới tồn tại được, nếu không sẽ bị cuốn theo làn sóng sáp nhập hợp nhất. Quan trọng hơn nữa, khi thị trường nội địa bị thâu tóm bởi các doanh nghiệp nước ngoài, khả năng sụt giảm nguồn thu thuế sẽ tăng cao, khó có thể điều tiết được thị trường trong trường hợp cần thiết.
Như vậy, việc gia tăng các FTA là tốt cho hoạt động xuất khẩu, nhưng nếu không tính toán kỹ lưỡng, lợi ích ròng từ các FTA sẽ không được như mong đợi, có khi còn bị “việt vị” vì mải tấn công mà quên phòng thủ ở sân nhà. Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước cũng như Chính phủ cần có những chuẩn bị từ xa, để nâng cao năng lực cạnh tranh, từ nhân sự (chuyên môn, ngoại ngữ), đến sản phẩm, dịch vụ cốt lõi của doanh nghiệp.
Võ Đình Trí - Đại học Kinh tế TPHCM, AVSE Global
THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN
|