UBCK lấy ý kiến dự thảo sửa đổi bổ sung Thông tư 226 về an toàn tài chính
UBCKNN vừa tiến hành lấy ý kiến dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 226 quy định các chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính. Cụ thể:
- Sửa đổi khoản 2 Điều 10 về Tỷ lệ vốn khả dụng và các mức cảnh báo. “2. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cảnh báo và ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát theo quy định tại Điều 12 Thông tư này hoặc kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Điều 14 Thông tư này. Trong vòng hai mươi bốn (24) giờ, quyết định này phải được công bố trên trang thông tin điện tử của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.”
- Bổ sung điểm b, khoản 1 Điều 11 về Chế độ báo cáo về tỷ lệ vốn khả dụng. “b) Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải công bố thông tin trên trang thông tin điện tử của công ty về tỷ lệ vốn khả dụng theo mẫu quy định tại Phụ lục 5 Thông tư này sau khi đã được soát xét (tại thời điểm giữa năm) theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 910 và đã được kiểm toán (tại thời cuối năm) theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 800 bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận cùng với thời điểm công bố thông tin báo cáo tài chính bán niên và báo cáo tài chính năm.”
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 12 về Kiểm soát. “1. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát khi:
a) Tỷ lệ vốn khả dụng dao động từ 120% tới 150% trong tất cả các kỳ báo cáo trong ba (03) tháng liên tục; hoặc
b) Tỷ lệ vốn khả dụng đã được soát xét hoặc được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận dao động từ 120% tới 150%.”
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, khoản 3 điều 14 về Kiểm soát đặc biệt. “1. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi không đáp ứng một trong các trường hợp sau:
a) Tỷ lệ vốn khả dụng giảm xuống dưới 120%, bao gồm cả trường hợp tỷ lệ vốn khả dụng do công ty tự tính hoặc sau khi đã được soát xét, kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận; hoặc
b) Tổ chức kinh doanh chứng khoán không khắc phục được tình trạng kiểm soát trong thời gian quy định tại khoản 2 Điều 12 Thông tư này; hoặc
c) Tổ chức kinh doanh chứng khoán không thực hiện báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng trong ba (03) kỳ liên tiếp, hoặc không công bố thông tin về tỷ lệ vốn khả dụng đã được soát xét, kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận theo quy định tại Điều 11 Thông tư này;
d) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có quyền đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tổ chức này có khoản ngoại trừ trọng yếu tại báo cáo tài chính đã được soát xét, hoặc đã được kiểm toán dẫn tới tỷ lệ vốn khả dụng giảm xuống dưới mức 120%.
2. Thời hạn kiểm soát đặc biệt không quá ba (03) tháng, kể từ ngày tổ chức kinh doanh chứng khoán bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Tổ chức kinh doanh chứng khoán được đưa ra khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tỷ lệ vốn khả dụng đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận đạt và vượt 150% trong tất cả các kỳ báo cáo trong vòng ba (03) tháng liên tục.”
- Bổ sung khoản 5 Điều 14 về Kiểm soát đặc biệt. “5. Sau khi hết thời hạn kiểm soát đặc biệt theo quy định tại khoản 2 Điều này, nếu tổ chức kinh doanh chứng khoán vẫn không khắc phục được tình trạng kiểm soát đặc biệt và có lỗ gộp thấp hơn năm mươi phần trăm (50%) vốn điều lệ thì bị đình chỉ hoạt động nghiệp vụ kinh doanh có ảnh hưởng đến tài sản của nhà đầu tư. Trình tự, thủ tục thực hiện việc đình chỉ hoạt động thực hiện theo hướng dẫn của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, phù hợp với các quy định do Bộ Tài chính ban hành.”
SSC
|