Thứ Tư, 26/10/2011 07:07

Tái cấu trúc nền kinh tế: Chủ trương đúng cần hành động nhanh

Vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng đã được nêu trong nhiều văn kiện Đại hội Đảng.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX, tháng 4/2001 đã đề ra chủ trương “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước…”. Sau hơn 10 năm kể từ Đại hội Đảng IX, tháng 10/2011, tại Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục.

Mỗi khi đã đạt được sự đồng thuận về sự cần thiết tái cấu trúc nền kinh tế, thì vấn đề đặt ra là bằng cách nào và làm gì để có được mô hình tăng trưởng mới?

Để tìm được câu trả lời đúng, cần từ bài học kinh nghiệm của quá trình trước, trong và sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) để vận dụng vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, bởi có thể coi việc chuyển hướng theo mô hình tăng trưởng mới là công cuộc đổi mới lần thứ hai ở nước ta. “Đổi mới trở thành yếu tố thúc đẩy, thể hiện sự cấp bách, nếu không muốn nói là một sự hối thúc về mặt đạo lý…, đổi mới được xem như yếu tố quyết định nhằm thúc đẩy quá trình hướng đến tương lai” (Tư duy lại khoa học, NXB Tri thức, 2009, tr.36).

Trong Diễn văn khai mạc Đại hội VI, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: “Chỉ có đổi mới, thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa… Muốn thế phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời, dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và bản thân mỗi người chúng ta”.

Công cuộc đổi mới vào lúc đó được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, chuyển đổi mô hình phát triển theo kế hoạch hóa từ một trung tâm, quan liêu, bao cấp, kém hiệu quả sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là quá trình kết hợp ba yếu tố:

(1) Tình hình kinh tế - xã hội trì trệ, khủng hoảng buộc nhiều địa phương phải “phá rào” thực hiện một số chủ trương trái với quy định của Trung ương, điển hình là tỉnh Long An “bù giá vào lương, bán hàng theo giá thị trường”, tỉnh An Giang “mua nông sản của nông dân không theo giá nghĩa vụ, mà sát giá thị trường; bán hàng công nghiệp theo giá thị trường”. Một số đơn vị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp “phá rào” cơ chế cũ để sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường “tự do”.

(2) Thất bại của các cuộc cải cách “giá - lương - tiền” từ năm 1976 và lần cuối cùng vào tháng 10/1985 tiến hành đổi tiền, nâng lương, điều chỉnh giá cả đã gây ra rối loạn kinh tế, bất ổn xã hội và thành công của chủ trương “khoán sản phẩm đến hộ và người lao động trong nông nghiệp”, “kế hoạch hóa ba phần trong công nghiệp”.

(3) Quyết tâm chính trị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương từ bỏ cơ chế cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, thừa nhận sai lầm về đường lối, chính sách, một điều gần như bị cấm kỵ trước đó, để dứt khoát đoạn tuyệt với nó.

Đó là quá trình kết hợp sáng kiến của cấp cơ sở và địa phương với thành công và thất bại của các cuộc cải cách để hình thành quyết tâm chính trị của cơ quan quyền lực cao nhất trong quá trình thai nghén, hình thành và thực hiện chủ trương đổi mới.

Những ai đã trải nghiệm trong giai đoạn quan trọng này của đất nước đều nhớ lại không khí thật sự dân chủ trong các cuộc hội thảo để tìm ra con đường mới và để tiến lên theo con đường đó. Tại nhiều cuộc hội thảo do Ban Bí thư, Trưởng ban Kinh tế Trung ương chủ trì, khá đông các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng, Chính phủ đã tham dự, nghe, đặt câu hỏi để các chuyên gia kinh tế tranh luận có khi rất gay gắt nhằm tìm được tiếng nói đồng thuận, theo phương châm chỉ đạo của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh “hãy tự cứu mình trước khi trời cứu”. Chính từ các cuộc hội thảo như vậy, dần hình thành tư duy đổi mới của các vị lãnh đạo cấp cao, trở thành tư tưởng chỉ đạo công cuộc đổi mới.

Khi biết Việt Nam chuyển hướng theo kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thì các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), một số trường đại học và viện nghiên cứu của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, ASEAN tìm đến nước ta, bằng các khoản tài trợ nhỏ, cử chuyên gia có năng lực, tiếp cận với những cơ quan, tổ chức trong nước, thực hiện một số nghiên cứu và tổ chức hội thảo khoa học rất bổ ích đối với cán bộ lãnh đạo cấp cao và chuyên gia kinh tế Việt Nam. Đến nay, một số giáo sư nước ngoài vẫn giữ được mối quan hệ hợp tác, trở thành các chuyên gia hàng đầu về Việt Nam.

Đó là phương thức hữu hiệu để khai thác, tập hợp trí tuệ của người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, cộng với trí tuệ của chuyên gia quốc tế để hình thành và từng bước hoàn thiện chủ trương đổi mới.

Một số phương thức ra quyết định của Đảng và Chính phủ trong giai đoạn này cũng rất đáng trân trọng. Vào thời kỳ đó, hầu như các nhà lãnh đạo và chuyên gia kinh tế nước ta chưa đủ kiến thức về kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nên đã chịu khó học hỏi và thực sự cầu thị trong việc hợp tác với các chuyên gia nước ngoài. Xin nêu ba ví dụ minh họa.

Để xây dựng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, tập thể chuyên gia luật và kinh tế Việt Nam do Luật sư Lưu Văn Đạt, cố Bộ trưởng Võ Đông Giang chủ trì đã tham khảo 18 luật của các nước, với sự hỗ trợ trên tinh thần hợp tác của các chuyên gia UNIDO, WB, một số công ty luật của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.

Để chống lạm phát phi mã, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thành lập Tổ tư vấn chống lạm phát, gồm nhiều chuyên gia kinh tế trong nước, đã nhận được một số kiến nghị từ chuyên gia Việt kiều, quốc tế về các giải pháp, với tầm nhìn và tính quyết đoán cao, khi tỷ lệ lạm phát vào tháng 3/1988 là 9%/tháng.

Ông đã quyết định lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12%/tháng, hấp dẫn đối với người dân, do vậy hút được rất nhiều tiền mặt trong lưu thông, giảm nhanh tốc độ tăng giá, đến tháng 9 năm đó, lãi suất tiền gửi chỉ còn 5%/tháng và sau đó trở nên ổn định.

Để xây dựng Chiến lược Phát triển 1991-2000, Tiểu ban Xây dựng chiến lược của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã “đặt hàng” cho 6 tổ chức (Viện Chiến lược thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Kinh tế Trung ương, Viện Khoa học xã hội và Nhân văn, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Trường đại học Kinh tế Hà Nội và Trường đại học Kinh tế TP.HCM) nghiên cứu độc lập hình thành 6 dự thảo đề án, trình Bộ Chính trị, để từ đó biên soạn văn kiện chính thức đưa ra Trung ương, lấy ý kiến của các cấp, ngành, chuyên gia trong nước và nước ngoài trước khi ra quyết định.

Phương thức làm việc khoa học là yếu tố quyết định hình thành các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước có chất lượng cao.

Từ những nội dung đã trình bày trên đây, xin nêu một số kiến nghị từ việc vận dụng bài học kinh nghiệm của Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) thích ứng với tình hình đất nước hiện tại.

(1) Tiếp cận tư duy phát triển hiện đại từ những nhà lãnh đạo cấp cao Trung ương đến lãnh đạo địa phương, doanh nghiệp để thấy được tính cấp bách của đổi mới tư duy về mô hình tăng trưởng, tạo tiền đề cho việc thống nhất hành động của hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và doanh nghiệp.

(2) Từ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba, khóa XI “Năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục thực hiện Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị, ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm”, cần thành lập Tiểu ban chỉ đạo việc nghiên cứu mô hình tăng trưởng mới, để từ nay đến hết năm 2011 đề ra kế hoạch thực hiện, hệ thống giải pháp cải cách toàn diện thể chế, chính sách, luật pháp, phương thức quản lý nhà nước thích ứng với mô hình đó.

(3) Giao một số viện, trường đại học nghiên cứu các phương án độc lập trình Bộ Chính trị tham khảo để chọn phương án tối ưu, hoặc rút tỉa các yếu tố tối ưu của từng phương án để hình thành phương án chính thức về mô hình tăng trưởng mới và hệ thống giải pháp thực hiện.

(4) Ban Bí thư chủ trì một số hội thảo khoa học trên tinh thần thật sự dân chủ, khuyến khích tranh luận với sự tham gia của các chuyên gia trong nước và Việt kiều, khi cần có thể tham vấn các tổ chức và chuyên gia quốc tế để tập hợp trí tuệ người Việt Nam và người nước ngoài nhằm tìm được lời giải đúng cho bài toán mô hình tăng trưởng.

Dư luận xã hội rất đồng tình với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, dám nói đúng sự thật của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Tổng Bí thư tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba, đồng thời đánh giá cao những chuyển biến tích cực bước đầu về chủ trương và phong cách quản lý nhà nước của Chính phủ cùng một số bộ trưởng. Hy vọng rằng, với quyết tâm chuyển đổi mô hình tăng trưởng, Việt Nam sẽ sớm khắc phục được khó khăn trong ngắn hạn, phát triển kinh tế với hiệu quả cao, chất lượng tốt, bền vững hơn, hướng đến mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020.

GS - TSKH Nguyễn Mại

đầu tư

Các tin tức khác

>   Không thoái vốn nhà nước bằng mọi giá (26/10/2011)

>   Giảm lạm phát cuối năm: Khó, nhưng phải kiên quyết (25/10/2011)

>   Vốn đầu tư từ Nga sẽ đổ vào du lịch, bất động sản (25/10/2011)

>   FDI đăng ký tăng mạnh (24/10/2011)

>   Daelim Industrial đầu tư vào Dự án Lọc hóa dầu Vân Phong (24/10/2011)

>   Ngưỡng nợ công: An toàn hay báo động? (24/10/2011)

>   “Mổ xẻ” căn cơ để đẩy lùi lạm phát (24/10/2011)

>   CPI cả nước tháng 10 tăng 0.36% (24/10/2011)

>   Sáng 24/10, Quốc hội thảo luận về dự toán ngân sách nhà nước (24/10/2011)

>   Thời điểm để giảm dần vay nợ nước ngoài (24/10/2011)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật