Thứ Hai, 21/02/2011 07:04

Tăng trưởng GDP 2011: Nên tiến hay lùi?

Trong bối cảnh lạm phát trên thế giới có xu hướng tăng cao, Việt Nam cần cân đối trong phân bổ đầu tư giữa hạ tầng, phúc lợi công cộng và hiệu quả kinh tế từ đó có tốc độ tăng GDP hợp lý. Mức độ tăng trưởng thế nào là phù hợp với bối cảnh hiện nay cũng như năng lực sản xuất của Việt Nam?

LTS: Rất nhiều độc giả gửi ý kiến cùng tranh luận chuyên gia Bùi Kiến Thành và bài viết phản biện của TS. Nguyễn Quang A về lãi suất và CPI (chỉ số giá tiêu dùng). Diễn đàn Kinh tế Việt Nam chọn đăng bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tiến(*), với quan điểm riêng của ông về mối quan hệ giữa lãi suất, lạm phát và tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay .

Bắt buộc phải giảm lãi suất trái phiếu

Hiện nay vấn đề phát triển (tăng trưởng GDP) của Việt Nam đang phải cân nhắc giữa đầu tư cho phát triển và tiêu dùng xã hội.

Trong chính sách phát triển thông qua kích cầu hiện nay của Việt Nam, chủ yếu tăng trưởng sẽ đạt được nhờ các dự án đầu tư được cấp vốn thông qua trái phiếu chính phủ.

Năm 2010 số vốn đầu tư qua trái phiếu chính phủ đã lên đến 400.000 tỷ VND; với bình quân lãi suất trái phiếu VND lên đến 10% thì hàng năm, NHNN sẽ phải phát hành thêm 40.000 tỷ VND để trả lãi. Như vậy, trong năm 2010 mức tăng tín dụng do đầu tư lên đến 440.000 tỷ VND. Với tổng mức tăng trưởng tín dụng là 30% tương đương 600.000 tỷ VND (tổng tín dụng hệ thống là 2.000.000 tỷ VND), phần đầu tư của trái phiếu chính phủ đã chiếm rất lớn trong tổng tăng trưởng tín dụng hệ thống.

Do đó, muốn có thêm tiền để chi tiêu các ngân hàng bắt buộc phải tăng lãi suất VND lớn hơn lãi suất trái phiếu để hút tiền về. Chính vì lý do cạnh tranh lẫn nhau này đã dẫn đến lãi suất trái phiếu lên đến 10% như hiện nay.

Muốn giảm lãi suất ngân hàng, bắt buộc phải giảm lãi suất trái phiếu bằng cách giảm đầu tư dùng nguồn vốn trái phiếu chính phủ. Tốt nhất là lãi suất trái phiếu nên vào khoảng 5%, từ đó tính ra nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ cho phù hợp.

Nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cứ tiếp tục phát hành các phương tiện thanh toán như được cho phép tăng đến 25% mà không giảm tương ứng số tiền lãi trái phiếu chính phủ đã thanh toán (là lượng VND đã phát hành thêm) thì sẽ gây lạm phát VND. Tương tự như khi các nguồn vốn lớn khoảng 3 tỷ USD (khoảng 48.000 tỷ VND) từ nước ngoài đổ vào TTCK năm 2007, NHNN đã phải bán ra lượng VND tương ứng cũng đã gây ra lạm phát do tăng cung thanh toán lớn hơn tăng GDP, gây ra CPI tăng cao trong năm 2008.

Tuy nhiên lạm phát VND sẽ gây ra mức tăng CPI khác nhau tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể trong nước và thế giới.

Khó kiềm chế CPI do lạm phát

Muốn giảm lạm phát phải giảm tổng cung VND. Theo công ước Basel3, vào tháng 10/2010, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại tăng dự trữ bắt buộc VND từ 8% lên 9%, tương đương giảm 20.000 tỷ VND trong tổng cung thanh toán.

Nếu tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại bằng trái phiếu có nghĩa là khối tư nhân giảm chi tiêu, để dành số tiền này cho chi tiêu đầu tư công thông qua việc NHNN sẽ tái cấp vốn này (dự trữ bắt buộc của NHTM) cho các dự án đầu tư khác hay trả lãi vay qua trái phiếu; ngân hàng thương mại sẽ nhận được lãi suất trái phiếu dự trữ bắt buộc.

Áp lực lạm phát cũng giảm khi chỉ cho phép tăng trưởng tín dụng 20% (bình quân giai đoạn 2001-2006) thay vì 30% (bình quân giai đoạn 2007-2010) như hiện nay, có nghĩa là phải giảm mức tăng chi tiêu dùng xuống 10% tương đương khoảng 200.000 tỷ VND - số tiền (hàng hoá) này dùng cho các khoản đầu tư qua trái phiếu chính phủ hàng năm.

Với lãi suất cho vay VND lên đến 18%/năm, thì chỉ có những dự án siêu lợi nhuận hay thật cấp bách mới dám sử dụng, do đó sẽ làm giảm sản xuất dẫn đến giảm lượng hàng cung cấp, làm giảm tổng cung.Theo kế hoạch tín dụng năm 2011 của NHNN, thì mức tăng tín dụng sẽ được cho phép là 23% (có xu hướng giảm tăng tín dụng hệ thống xuống còn 20%), tăng phương tiện thanh toán là 21-24% cũng làm giảm áp lực tăng lãi suất và lạm phát trong năm tới.

Với tính toán tổng thể, có thể nhận định trong thời gian tới đây tổng đầu tư qua trái phiếu chính phủ không nên vượt quá 200.000 tỷ VND/năm. Tuy nhiên trong kế hoạch đầu tư dùng nguồn vốn trái phiếu chính phủ năm 2011, lại thấy tổng đầu tư dùng vốn trái phiếu lên đến 600.000 tỷ VND, điều đó gây áp lực lớn lên hệ thống kinh tế.

Giá cả vật tư nguyên liệu thế giới tăng 30-40% do lạm phát USD (Mỹ đã bơm 2300 tỷ USD tiền mặt vào thị trường gây ra lạm phát làm giá cả thế giới tăng cao) và do tổng dự trữ ngoại tệ khá thấp chỉ đảm bảo cho thanh toán nhập khẩu 8-10 tuần (khoảng 16 tỷ USD) gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai. Lượng dự trữ USD thấp nên khi giá thế giới tăng dẫn đến thiếu USD để thanh toán ngoại hối, làm tăng giá USD so với VND trong khi USD cũng đang bị mất giá trên thế giới.

Khi lượng tiền VND bị hút về để mua USD sẽ làm thiếu tiền VND trong hệ thống ngân hàng, do đó các ngân hàng thương mại lại phải tăng lãi suất để hút VND về nhằm đảm bảo thanh khoản và chi tiêu. Vì vậy, tăng lãi suất VND lại có thêm nguyên nhân do thiếu USD phục vụ cho thanh toán ngoại hối. Khi các NHTM cùng tăng lãi suất để hút nguồn vốn VND và USD về mình sẽ dẫn đến cuộc chiến lãi suất giữa các ngân hàng như hiện nay.

Với lãi suất cho vay VND lên đến 18%/năm, thì chỉ có những dự án siêu lợi nhuận hay thật cấp bách mới dám sử dụng, do đó sẽ làm giảm sản xuất dẫn đến giảm lượng hàng cung cấp, làm giảm tổng cung.

Nguyên nhân tăng CPI (chỉ số giá cả chung, hàm ý bao gồm hàng hoá và nguyên liệu) là do chênh lệch cung - cầu tăng mạnh, do gia tăng đầu tư (làm tăng cầu) và lãi suất tăng cao (làm giảm cung). Lạm phát VND làm giá nguyên vật liệu trong nước tăng và lạm phát USD làm giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng. Như vậy lạm phát VND sẽ gây tác động kép lên CPI do giá đầu vào và giá bán ra đều tăng.

CPI tăng do chênh lệch cung - cầu (vi mô) có thể kiểm soát một phần thông qua các chương trình bình ổn giá (như đã thực hiện tại TP.HCM và Hà Nội), tuy nhiên CPI tăng do lạm phát (vĩ mô) thì sẽ không kiềm chế được lâu.

Năm 2011 chỉ nên tăng GDP 5-6%?

Nhu cầu USD sẽ do đầu tư của khối nhà nước và chi tiêu tư nhân quyết định. Để tăng dự trữ USD và giảm nhu cầu USD nhằm cân bằng thanh toán ngoại hối (tổng thu chi USD quốc gia phải cân bằng), nhằm ổn định tỷ giá USD/VND bắt buộc cả hai khối phải giảm chi tiêu USD thông qua hai cách:

1. Tăng tỷ giá USD/VND để giảm chi tiêu của khối tư nhân do mua hàng trong nước rẻ hơn nhập khẩu và giá cả nhập khẩu tăng cao làm giảm nhu cầu tiêu dùng hàng nhập ngoại.

Với giá cả nhập khẩu cứ tăng cao như hiện nay, về lâu dài nếu sử dụng hàng trong nước sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu USD.

2. Giảm đầu tư của khối nhà nước vì có đến 40% tổng vốn đầu tư cho các dự án này là dùng USD để nhập hàng hoá về. Nếu cứ tiếp tục mức đầu tư cao như hiện nay, sẽ không có đủ ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, gây áp lực lớn lên tỷ giá và dự trữ ngoại hối.

Giảm đầu tư dùng trái phiếu chính phủ cũng làm giảm số lãi phải trả do đó cho phép giảm lãi suất huy động vốn cho hệ thống ngân hàng.

Trong tương lai gần, khi Việt Nam phải thanh toán nợ USD gốc cho các dự án ODA, FDI thì nhu cầu USD (để trả nợ) lại tăng thêm, khi đó bắt buộc phải giảm chi dùng USD để trả số nợ này để giữ mức tín dụng hiện có. Vì nếu bị hạ định mức tín nhiệm tín dụng, Việt Nam sẽ phải trả lãi cao hơn cho các nguồn vốn vay ngoại tệ, hay thậm chí không phát hành được trái phiếu USD như một số tập đoàn đã gặp phải.

Để phát triển trong ổn định vĩ mô và giảm một cách căn bản nguồn gốc tăng lãi suất, lạm phát và CPI, cần triển khai các biện pháp sau:

- Nếu muốn có tốc độ tăng trưởng GDP cao và với nguồn vốn đầu tư hạn chế thì cần tập trung đầu tư cho các dự án có hệ số hiệu quả tăng trưởng (ICOR) cao trong các lĩnh vực như công nghiệp và xuất khẩu như: dệt may, giày da, chế biến, dầu khí, nông nghiệp, dịch vụ, các DN có hiệu quả kinh doanh tốt (kể cả DNNN và tư nhân).

- Nếu vẫn giữ tốc độ tăng trưởng GDP lên đến 7,5% và đầu tư vào các khu vực có ICOR thấp như hạ tầng (giao thông, xây dựng, bất động sản), chi tiêu công (y tế, giáo dục, chính phủ), dự án không hiệu quả thì sẽ phải dùng nhiều vốn đầu tư, dẫn đến lạm phát khi nguồn vốn không đủ.

- Phương án nằm giữa hai phương án trên là đầu tư vào các dự án cần thiết và sắp đưa vào sử dụng để sớm đem lại hiệu quả đầu tư. Dừng đầu tư vào các dự án chưa cấp bách và bất động sản, dành vốn đầu tư cho các lĩnh vực đem lại hiệu quả ICOR cao, các lĩnh vực xuất khẩu mang về ngoại tệ. Đầu tư hợp lý cho các khối dịch vụ và phúc lợi công cộng (y tế, giáo dục, chính phủ).

Nếu vẫn muốn có tốc độ tăng GDP cao hơn sẽ phải chấp nhận lạm phát làm tăng mạnh CPI (nghĩa là phải giảm tiêu dùng để tăng đầu tư). Chỉ khi Việt Nam tái cấu trúc được nền kinh tế (gồm DNNN và DN tư nhân có hiệu quả cao, TTCK lành mạnh, năng suất lao động cao, cải cách hành chính, phúc lợi công cộng hợp lý) để có mức hiệu quả đầu tư cao (hệ số ICOR thấp) thì lúc đó chúng ta sẽ có tốc độ tăng GDP cao và lạm phát thấp.

Hiện nay Việt Nam đang nhập siêu nên nền kinh tế bị áp lực kép, gây ra lạm phát cao do áp lực gia tăng đầu tư trong nước và giá cả thế giới tăng cao, khiến CPI cũng tăng theo, làm mất ổn định kinh tế vĩ mô.

Với mức nhập siêu 18% kim ngạch XNK, khi giá cả nhập khẩu thấp (kinh tế thế giới suy thoái) sự phát triển do nhập khẩu với nguồn vốn rẻ sẽ đem lại hiệu quả cao. Nhưng khi tình hình kinh tế thế giới phục hồi làm giá cả vật tư tăng lên thì sẽ gây lạm phát và tăng CPI làm mất ổn định nền kinh tế.

Thực tế ở Việt Nam (lạm phát và tăng CPI, áp lực mất giá nội tệ) cũng khá giống các nước ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Malaysia) vào năm 1998 do sự phát triển nóng và đầu tư quá nhiều vào hạ tầng, làm mất cân bằng ngoại hối với USD. Năm 2010, các nước ASEAN đã tránh khỏi khó khăn này (lạm phát khá thấp) do sự phát triển hợp lý không còn phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố bên ngoài và nguồn vốn USD.

Tương tự Việt Nam, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt bài toán tốc độ tăng trưởng, lạm phát và CPI. Tuy nhiên, các số liệu tăng trưởng GDP và CPI của Trung Quốc có thể không tin cậy do nguyên nhân chính trị. CPI đầu năm 2011 bị điều chỉnh giảm là do nước này làm giảm trị số của nhóm hàng có giá tăng cao nhiều như thực phẩm, hàng tiêu dùng (viện lý do năm nay chỉ số CPI được điều chỉnh các trọng số trong chu kỳ 05 năm). Do đó, NDT sẽ bị giảm giá trị thực tế so với USD, trong khi tỷ giá danh nghĩa vẫn là 6,3 NDT=1 USD.

Nếu Việt Nam tiếp tục chạy theo mở rộng đầu tư hạ tầng để có tăng trưởng GDP cao có nghĩa là phải giảm chi tiêu dùng (trong hiện tại) để dành đầu tư phát triển (cho tương lai) thì phải chấp nhận lạm phát cao, gây mất ổn định vĩ mô.

Trong bối cảnh lạm phát trên thế giới có xu hướng tăng cao như hiện nay (do Mỹ muốn tiếp tục bơm các gói đầu tư QE), Việt Nam cần giảm chi tiêu đầu tư không hiệu quả, chưa thật cần thiết để tập trung nguồn vốn cho các dự án đem lại hiệu quả cao; chấp nhận mức tăng trưởng GDP hợp lý khoảng 5-6% phù hợp với cơ cấu hiện tại nền kinh tế và khả năng đầu tư của đất nước.

Nói cách khác, Việt Nam cần cân đối trong phân bổ đầu tư giữa hạ tầng (đầu tư cho tương lai), phúc lợi công cộng (gồm y tế, giáo dục, chính phủ) và hiệu quả kinh tế cao (khối doanh nghiệp) từ đó có tốc độ tăng GDP hợp lý (khoảng 5% là phù hợp).

Nếu vẫn muốn có tốc độ tăng GDP cao hơn sẽ phải chấp nhận lạm phát làm tăng mạnh CPI (nghĩa là phải giảm tiêu dùng để tăng đầu tư). Chỉ khi Việt Nam tái cấu trúc được nền kinh tế (gồm DNNN và DN tư nhân có hiệu quả cao, TTCK lành mạnh, năng suất lao động cao, cải cách hành chính, phúc lợi công cộng hợp lý) để có mức hiệu quả đầu tư cao (hệ số ICOR thấp) thì lúc đó chúng ta sẽ có tốc độ tăng GDP cao và lạm phát thấp.

(*) Tác giả hiện là tư vấn chiến lược và CNTT cho khối Chính phủ và DNNN, các tập đoàn, tổng công ty (public sector) và là chuyên gia về chính phủ điện tử (e-Government).

Nguyễn Anh Tiến

DIỄN ĐÀN KINH TẾ VIỆT NAM

Các tin tức khác

>   Nói và làm: Trống đánh xuôi, kèn có thổi ngược? (21/02/2011)

>   Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Kiểm soát tín dụng, ổn định kinh tế vĩ mô (21/02/2011)

>   TS Trần Du Lịch: "Phải giảm tổng cầu nền kinh tế" (20/02/2011)

>   Kiểm soát là then chốt trong quản lý kinh tế (20/02/2011)

>   Crown mở rộng sản xuất tại Việt Nam (20/02/2011)

>   Khi lạm phát gần gấp đôi tăng trưởng (19/02/2011)

>   Lạm phát quý I có thể đến 4% (19/02/2011)

>   Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát (18/02/2011)

>   Quản lý chi phí dự án sử dụng vốn ngân sách (18/02/2011)

>   Thông điệp chống lạm phát mạnh mẽ hơn (18/02/2011)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật