Chỉ là chữa cháy!
Chủ trương mua lúa tạm trữ của Chính phủ là đúng, nhưng vẫn còn một số kẽ hở khiến những doanh nghiệp thực thi có thể lợi dụng. Và theo nhiều nhà chuyên môn, dù đúng, đó cũng chỉ là giải pháp nhất thời chứ chưa giải quyết rốt ráo chuyện mà nông dân cần.
Thái Lan cũng có chính sách mua tạm trữ, nhưng với lợi thế kho bãi, tài chính, họ có thể mua lúa ngay từ đầu vụ và nông dân có thể bán bất cứ lúc nào.
Mỗi tháng, hội đồng định giá lúa sẽ họp lại thống nhất giá, nông dân thấy giá phù hợp thì cứ ký hợp đồng bán, kể cả khi lúa chưa thu hoạch. Sau khi kiểm tra chất lượng, thu hoạch, nếu thời điểm đó giá lúa gạo trên thị trường sụt thì cơ quan có trách nhiệm của Thái Lan vẫn mua với giá khi ký hợp đồng, còn nếu giá thị trường cao hơn thì họ sẽ nâng giá theo. Khi doanh nghiệp muốn xuất khẩu, sẽ phải đến mua tại các kho này...
Còn tại Việt Nam, do còn nhiều khó khăn, nên chính sách tạm trữ trong thời gian qua chỉ được đưa ra mỗi khi nông dân khó bán lúa. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) được giao nhiệm vụ này, kèm theo số vốn phân bổ cần thiết.
Lúng túng tạo kẽ hở
“Lúa gạo hiện đang có giá! Do đó, trong thời gian gần đây, doanh nghiệp mua lúa gạo tạm trữ theo chủ trương có dấu hiệu... cầm chừng”, Giáo sư Võ Tòng Xuân, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học An Giang, nhận định như vậy. Thông tin gần đây từ VFA cho biết Trung Quốc nhập rất nhiều gạo Việt Nam, theo ông Xuân là thiếu chính xác. “Tôi đã kiểm chứng nhiều “đầu mối” ở Trung Quốc và họ nói không có chuyện tăng nhu cầu gạo Việt Nam đột ngột như vậy”, ông nói.
Và ông cho rằng, đưa ra thông tin ấy, VFA muốn giúp nông dân an tâm, rằng lúa gạo vẫn đang hút hàng và “quên” đi việc các doanh nghiệp đang mua lúa tạm trữ cầm chừng. Bởi với những hợp đồng đã ký giá thấp trong thời gian qua, nếu mua lúa gạo nguyên liệu càng nhiều, càng nhanh trong thời điểm hiện nay, doanh nghiệp lỗ càng nặng.
“Nguyên nhân chính là VFA nhận định thị trường sai, sau đó đưa ra mức giá khá thấp, 3.500 đồng/ki lô gam lúa để mua tạm trữ vào đầu tháng 7. Không ai dè, gần đây giá lúa tăng đột ngột”, giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở ĐBSCL nói. Do đó, theo ông này, mua lúa tạm trữ là chủ trương đúng của Chính phủ, nhưng những người thực hiện không biết vô tình hay cố ý mà quá lúng túng.
Cũng theo ông, thậm chí thời gian qua đã có một số doanh nghiệp có dấu hiệu lợi dụng kẽ hở từ chủ trương này. “Họ tuyên bố đã mua tạm trữ vài trăm ngàn tấn, nhưng con số thực tế thấp hơn nhiều. Đơn giản là báo cáo vậy, họ sẽ được giải ngân vốn hỗ trợ theo chương trình với lãi suất 0% trong bốn tháng. Đồng vốn này sẽ giúp họ đáo nợ những khoản vay với lãi suất thương mại trước đó từ ngân hàng, nhẹ gánh chi phí”, ông nói.
Đã có đề xuất quy định, rằng sẽ kiểm tra lượng gạo các doanh nghiệp mua tạm trữ bằng
Tình hình mua tạm trữ nông sản trong năm 2010
Ngày 30-6, Thủ tướng ký Quyết định 993 chỉ đạo mua tạm trữ tối đa một triệu tấn quy gạo vụ hè thu năm 2010 trong hai tháng, bắt đầu từ ngày 15-7. Theo đó, các doanh nghiệp thực hiện mua lúa, gạo tạm trữ theo cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay mua lúa, gạo tạm trữ. Thời gian tạm trữ được hỗ trợ lãi suất tối đa là bốn tháng, tính từ ngày 15-7 đến 15-11.
Ngày 8-7, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thực hiện cho vay thu mua tạm trữ lúa, gạo hè thu năm 2010.
Sau đó, có thêm LienVietBank cũng được tham gia vào việc cho vay này.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đến đầu tháng 8-2010, số lượng mua tạm trữ của 48 doanh nghiệp mới chỉ đạt khoảng 300.000 tấn, đạt khoảng 30% chỉ tiêu tạm trữ.
S.N | cách nhờ chính quyền địa phương xác nhận số lượng. “Đây là quy định khôi hài! Chính quyền địa phương làm sao nắm được số lượng doanh nghiệp nào đó mua vào, bởi họ còn mua qua hàng xáo...”, vị giám đốc kể trên, nói thêm.
Tiến sĩ Mai Văn Nam, Trưởng khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh (Đại học Cần Thơ), cho rằng nên có quy định mua tạm trữ trong bao lâu, tính toán giá mua sao cho hợp lý hơn và xem lại việc hỗ trợ lãi suất. “Không khéo doanh nghiệp sử dụng vốn đó không đúng mục đích, mua không đủ số lượng”, ông nói.
“Việc hỗ trợ lãi suất ấy, theo tôi nên dành giúp doanh nghiệp đầu tư vào khâu xay xát, chế biến, kho trữ... Bởi giai đoạn đầu, VFA có thể làm tốt chuyện tạm trữ. Nhưng khi các kho đã chứa đầy, lại phải mua trữ tiếp... thì sức ép tồn kho sẽ dồn vào doanh nghiệp”, Tiến sĩ Phạm Văn Tấn, Phó giám đốc Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, cho biết thêm.
Và ông cũng cho rằng, chủ trương mua tạm trữ trong thời gian qua thực ra cũng chỉ nhằm chữa cháy, nhất thời chứ không phải giải pháp lâu dài.
Bởi thực tế, việc mua tạm trữ chỉ giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm những khi thị trường bế tắc, chứ họ không thu được lợi nhuận cao khi bán lúa trong những thời điểm có chủ trương tạm trữ.
“Và nếu duy trì cách làm như lâu nay, không khéo tạm trữ sẽ làm lũng đoạn thị trường, hoặc tốt, hoặc xấu. Bởi sau khi mua tạm trữ, nếu thị trường ứ đọng, tiêu thụ không tốt thì doanh nghiệp bấm bụng chịu, tìm cách gỡ bằng chuyện khác. Nhưng ngược lại, nếu muốn “làm giá” cao, các doanh nghiệp quốc doanh chủ đạo sẽ giữ lúa gạo lại để làm giá, như hồi năm 2008. Còn nông dân, rốt cùng không hưởng lợi bao nhiêu”, ông Xuân khẳng định.
Bớt “chữa cháy”, tính lâu dài
Nhưng thay vì giao các doanh nghiệp mua tạm trữ, phân bổ vốn, thì có nên hỗ trợ trực tiếp cho nông dân? Theo Tiến sĩ Dương Văn Ni (Đại học Cần Thơ), thực ra “gom tiền” đưa cho doanh nghiệp hay nông dân thì cũng như nhau, tức cũng để “chữa cháy”.
“Nhưng đưa tiền cho nông dân thì quản lý còn phức tạp hơn mà chưa chắc có hiệu quả”, ông nhận định. Nông dân cũng chỉ là cá thể, nên hỗ trợ trực tiếp rất khó. Nếu hỗ trợ vốn để họ không bức bách tiền vật tư nông nghiệp, có điều kiện chờ giá thì họ cũng chẳng có kho mà trữ.
“Về lâu dài phải để chính thị trường điều tiết. Nên để các đối tác trong chuỗi cung ứng làm ăn với nhau theo các chế tài của Nhà nước, sao cho hài hòa lợi ích. Phải gắn kết nhóm hộ nông dân, hợp tác xã với các cơ sở xuất khẩu”, ông Tấn đề xuất. Cụ thể, theo Giáo sư Xuân: “Nên nghiên cứu chọn hình thức công ty cổ phần nông nghiệp. Công ty này sẽ nhận vốn hỗ trợ từ Chính phủ và trung gian giúp đỡ nông dân”, ông đề xuất.
Theo ông, mục tiêu của mô hình này là tổ chức nông dân thành những hợp tác xã hoặc cụm sản xuất nguyên liệu nông sản theo phương thức hiện đại, đạt tiêu chuẩn thị trường. Mục đích sau cùng là để họ tự giác hợp tác với nhau một cách dân chủ và bình đẳng, cùng sản xuất theo dự án đã được duyệt. Mỗi nông dân có thể mua cổ phần của công ty bằng sản phẩm của mình, thay vì bằng tiền. Và công ty phải bảo đảm giá lúa trả cho nông dân bằng hoặc cao hơn giá ở thời điểm giao lúa, nếu có trả chậm, nhằm tránh áp lực thu hoạch đại trà.
Công ty sẽ có sân phơi, máy sấy, nhà kho, hệ thống chế biến... nhằm hiện đại hóa công nghệ sau thu hoạch. Những sản phẩm đạt chất lượng sẽ được phân phối cho thị trường cao cấp hoặc xuất khẩu, còn sản phẩm không đạt có thể tiêu thụ tại địa phương... Đến cuối niên vụ, nông dân sẽ được chia lãi theo số cổ phần và hưởng thêm tiền thưởng tính trên lượng lúa đã bán cho công ty.
“Như vậy, nông dân tham gia sẽ luôn được hưởng lãi, hoàn toàn khác nông dân cá thể”, ông Xuân nói. Ông cho biết, hiện đã có hai mô hình thí điểm ở An Giang và Đồng Tháp, nên cần đúc kết và hoàn chỉnh để nhân rộng.
Trong lúc chờ những giải pháp lâu dài, theo các nhà chuyên môn, việc mua lúa tạm trữ vẫn có thể duy trì, nhưng hạn chế thấp nhất những kẽ hỡ. Tiến sĩ Ni cho rằng, cần tăng cường kiểm soát doanh nghiệp khi triển khai mua tạm trữ, và dễ nhất là nếu có được một chính sách công khai. “Nên đưa ra triển vọng thị trường, dự báo đầu ra xuất khẩu. Nếu vậy, doanh nghiệp không bắt chẹt được nông dân. Nhưng tại Việt Nam, do chưa đủ năng lực nên khâu dự đoán còn rất nhiều lúng túng, do đó cũng khó công khai”, ông nói.
Những bất cập trong việc mua tạm trữ
Không thể phủ nhận chính sách mua tạm trữ các mặt hàng nông sản của Nhà nước trong thời gian qua đã giúp giữ giá nông sản cho nông dân. Nhưng về lâu dài, liệu việc mua tạm trữ các mặt hàng nông sản có đảm bảo lợi ích cho nông dân như mục tiêu của chính sách này?
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, chính sách mua tạm trữ hiện nay không giải quyết được cái gốc của vấn đề mà đôi khi còn làm méo mó thị trường. Chính sách này cũng làm nảy sinh nhiều bất cập trong thực tế. Doanh nghiệp được chỉ định mua tạm trữ nông sản đôi khi bị ngân hàng từ chối cho vay vì những khoản nợ quá hạn. Thế là việc mua tạm trữ bị chậm, không đúng tiến độ.
Trong khi đó, nhiều ngân hàng cũng không mặn mà với chính sách này, vì những kế hoạch kinh doanh dài hạn của họ bị gián đoạn khi nguồn vốn được phân bổ không như kế hoạch. Chưa kể đến việc đồng vốn được giải ngân để mua tạm trữ nông sản lại được dùng sai mục đích.
Một tréo ngoe khác, vốn cho vay tạm trữ được rót xuống các tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp thành viên khi muốn mua hàng hóa phải “dài cổ” đợi những đồng vốn nhỏ giọt rót xuống từ các tổng công ty mẹ. Hệ quả là nông dân thu hoạch nông sản xong phải chờ để được mua tạm trữ. Nông dân chờ cho đến khi không còn chờ nổi thì phải “bán lúa non” để trang trải chi phí cho sản xuất và cuộc sống của họ.
Thời gian qua, Nhà nước hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp mua tạm trữ nông sản với mục tiêu kiểm soát và điều tiết những mặt hàng này theo hướng có lợi cho nông dân nhưng đã không đạt được kết quả như mong muốn. Khi giá gạo, cà phê tăng cao, nông dân không có hàng để bán là ví dụ điển hình.
Với số vốn này, nếu Nhà nước hỗ trợ cho nông dân đủ khả năng tạm trữ hàng hóa với số lượng lớn sẽ nâng được giá trị của mặt hàng nông sản này. Việc hỗ trợ từ gốc, là nông dân, sẽ thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, nông dân sẽ chủ động hơn khi đưa hàng hóa ra thị trường ở thời điểm giá cao.
Ở đây không thể không nhắc đến những bất cập trong cơ chế xuất khẩu gạo. Dù đã được nhiều lần mổ xẻ, nhưng nói như một chuyên gia nông nghiệp, “đây là lô cốt cuối cùng của thành trì bao cấp, không dễ gì phá bỏ được”. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Nhà nước luôn viện lý do là an ninh lương thực quốc gia để kiểm soát cơ chế xuất khẩu gạo.
Tại sao Nhà nước không tách bạch số lượng gạo dự trữ (có thể tính toán được, thông qua công tác thống kê và dự báo cho từng mùa vụ) giao cho Cục Dự trữ Quốc gia đảm nhận. Số lượng gạo hàng hóa còn lại dành cho việc kinh doanh lương thực, nên để các công ty cổ phần đảm nhận và chịu trách nhiệm trong việc buôn bán mặt hàng này. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh lúa gạo là vấn đề quan trọng trong việc tạo ra một thị trường cạnh tranh.
Sơn Nghĩa |
Hồ Hùng
tbktsg
|