Thứ Ba, 10/07/2007 16:46

Dự báo khả năng phát triển kinh tế quý III năm 2007

1. Khả năng tăng trưởng các ngành kinh tế

a. Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Trong quý III, thời tiết tiếp tục được dự báo là nắng nóng và tình hình khô hạn có thể vẫn kéo dài đến tận tháng 9. Tuy nhiên, tình trạng khô hạn có thể sẽ được giảm bớt do miền Nam đã bước vào mùa mưa và các tỉnh miền Bắc và miền Trung sẽ có mưa bão. 

- Sản xuất nông nghiệp trong quý III cần chú ý tập trung vào việc kiểm tra, tôn tạo hệ thống kênh mương nội đồng để tránh tình trạng ngập úng do mưa lũ. Ngoài ra, cũng cần chú ý tới tình trạng sâu bệnh phát sinh gây hại cho vụ lúa hè thu. Dự báo năng suất vụ hè thu năm nay ở các tỉnh miền Nam sẽ không giảm do đã đẩy lùi được bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá một cách có hiệu quả.

Về chăn nuôi: Do đẩy mạnh công tác phòng chống dịch cúm gia cầm nên dự báo sang quý III, tình trạng bùng phát dịch sẽ được khống chế và đàn gia cầm được hồi phục dần với số lượng có thể sẽ tăng nhẹ so với quý II, do tâm lý của bà con nông dân sẽ thận trọng, chưa vội vàng đầu tư lớn. Đàn gia súc lớn dự báo cũng sẽ tăng từ 2-3% so với cùng kỳ năm 2006. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới sự biến đổi của dịch vì theo dự đoán của các chuyên gia, nắng nóng không phải là môi trường thuận lợi để virus cúm gia cầm sinh trưởng nhưng qua thực tế cho thấy dịch vẫn tái phát và lây lan rộng trong thời gian qua.

- Về lâm nghiệp: Do là mùa mưa nên diện tích rừng bị cháy do nắng nóng và khô hạn sẽ được giảm bớt. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa bão nên diện tích trồng rừng trong quý III có thể sẽ giảm so với quý II. Mặc dù công tác bảo vệ rừng vẫn được thường xuyên chú trọng nhưng hiện tượng lâm tặc vẫn khó có thể kiểm soát được, một phần do số lượng cán bộ kiểm lâm mỏng về nhân lực, phần khác do mức độ nguy hiểm của lâm tặc ngày càng gia tăng.

- Về thủy sản: Dự báo trong quý III, sản lượng thủy sản có thể sẽ giảm cả ở khai thác và nuôi trồng, mặc dù quý III là vào vụ thu hoạch tôm chính vụ và cá tra, cá basa. Nguyên nhân khách quan là do vào mùa mưa lũ, số lượng tàu bè ra khơi sẽ gặp nhiều khó khăn trong đánh bắt xa bờ. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của mưa lũ, nếu bà con ngư dân không có kế hoạch thu hoạch cụ thể và chủ động có thể sẽ dẫn đến nguy cơ mất trắng nhiều bè tôm, cá nuôi trồng.

- Về xuất nhập khẩu nông - lâm - thủy sản: Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, hải sản vẫn có khả năng tăng trong quý III do quý III là quý mà nhiều sản phẩm nông, hải sản  vào vụ thu hoạch chính. Thị trường xuất khẩu rau quả chủ yếu vẫn là Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước châu Á khác.

Nhập khẩu phân bón trong quý III dự báo vẫn tăng do nhu cầu trong nước tăng để phục vụ sản xuất cho vụ hè thu chính vụ. Đường nhập khẩu có thể sẽ không tăng do tình hình sản xuất trong nước đã cung cấp đủ nhu cầu. Nhập khẩu trái cây cũng có xu hướng tăng từ 7-8%, do nhu cầu tiêu thụ trong nước sẽ tăng mạnh trong quý này.

b. Công nghiệp

Tăng trưởng của khu vực công nghiệp luôn đóng vai trò chủ đạo cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua. Tốc độ tăng trưởng của khu vực này phụ thuộc rất nhiều vào sự gia tăng của đầu tư, tổng cầu nội địa và nhu cầu xuất khẩu. Theo những phân tích về tình hình phát triển của năm 2007 nói chung và c᫧a ngành công nghiệp nói riêng trong quý I, quý II, trong hai quý còn lại của năm, công nghiệp sẽ tiếp tục là ngành có tốc độ tăng trưởng khá, đóng góp đáng kể vào tỷ trọng tăng GDP của toàn quốc.

Bảng 4: Giá trị sản xuất công nghiệp 3 quý trong các năm 2005-2006-2007

Đơn vị: nghìn tỷ VNĐ

 

Quý I

Quý II

Quý III

Năm 2005

100,761

114,9

121

Năm 2006

119,803

130,42

135,73

Năm 2007

129,8

149,2 (e)

153,2 (f)

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; (e) Số liệu ước thực hiện và (f) Số liệu dự báo dựa  theo tính toán của Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia.

Như đã thấy trên bảng, xu hướng chung của các năm là giá trị sản xuất công nghiệp của các quý tăng dần và hai quý còn lại của năm bao giờ cũng đạt giá trị sản xuất lớn nhất (ngoại trừ có những yếu tố đột biến). Riêng năm 2007, tính chung cả hai quý I và II thì giá trị sản xuất công nghiệp đã đạt 49,38% kế hoạch năm. Như vậy, để đạt được kế hoạch đã đề ra thì nhiệm vụ của các quý còn lại là không quá nặng nề. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp trong quý III dự báo sẽ tiếp tục tăng theo đà tăng chung của hai quý trước, ước đạt 153,2 nghìn tỷ đồng.

Năm nay, Bộ Công nghiệp dự kiến kim ngạch xuất khẩu công nghiệp đạt 35,5 tỷ USD, tăng 17,1% so với năm 2006. Những mặt hàng xuất khẩu công nghiệp chủ lực vẫn là dầu thô (bao gồm cả khí thiên nhiên), dệt may và da giầy. Dự kiến, xuất khẩu dầu thô là 16,1 triệu tấn; dệt may đạt khoảng 7 tỷ USD; da giầy đạt khoảng 4 tỷ USD.

Dự kiến tăng trưởng của một số mặt hàng nổi bật của ngành công nghiệp trong quý III/2007:

Giá trị và sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp khai khoáng sẽ tiếp tục biến động trong quý III,  nhất là với 2 sản phẩm dầu thô và than đá. Sản lượng dầu thô khai thác trong quý III có xu hướng sẽ giữ nguyên hoặc giảm nhẹ từ 7,5-8%, do phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của các mỏ khai thác, đồng thời cũng là thực hiện định hướng chung trong khai thác khoáng sản là khai thác bền vững, lâu dài và bảo vệ tài nguyên của đất nước. Ngoài ra, cần phải giữ lượng dầu thô nhất định phục vụ cho nhà máy lọc dầu Dung Quất sắp tới đây sẽ đi vào hoạt động. Tuy giảm về lượng, nhưng do giá dầu thô tiếp tục có nhiều biến động, khả năng tăng giá cao, nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô dự báo cũng tăng lên.

Song, về phía tác động ngược lại, Việt Nam lại là nước phải nhập khẩu toàn bộ xăng dầu tiêu thụ nên xu hướng tăng giá này ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trong nước. Với cơ chế mở mà Nhà nước dành cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, tức là các doanh nghiệp này có thể chủ động định giá bán lẻ theo sự lên xuống của giá thị trường thế giới, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì khả năng giá xăng, dầu sẽ còn tăng trong thời gian tới, gây ảnh hưởng tới chi phí sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp vì đây là một trong những đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Chi phí đầu vào tăng thì giá cả các sản phẩm sẽ tăng và đây là một trong những nguyên nhân khiến cho chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong quý III và quý IV. 

Ngành công nghiệp khai thác than đá dự báo cũng sẽ giảm sản lượng trong quý III. Như đã phân tích ở tình hình quý II, ngành than đã gần hoàn thành xong chỉ tiêu về khai thác than của cả năm, vì vậy, trong 2 quý còn lại của năm, dự kiến sản lượng khai thác than sẽ giảm nhiều. Giá trị xuất khẩu than đá sẽ giảm trong tỷ trọng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp do chính sách tăng thuế xuất khẩu than nhằm khai thác bền vững tài nguyên của Việt Nam, cũng như mục tiêu dự trữ   than trong nước nhằm phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện đang chuẩn bị đi vào hoạt động.

Dệt may và da giày là hai mặt hàng chủ lực, có giá trị sản xuất cao của ngành công nghiệp chế biến cũng sẽ có nhiều biến động trong quý III. Dệt may là mặt hàng có khả năng gia tăng sản lượng sản xuất và kim ngạch xuất khẩu lớn với mức tăng trưởng trên 30%. Tuy nhiên, với những thách thức lớn như tiếp tục phải cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Ấn Độ và chịu cơ chế giám sát của Hoa Kỳ, ta buộc phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, mức độ sụt giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU như đã phân tích ở trên làm cho mục tiêu xuất khẩu 5,2 tỷ USD của ngành dệt may trong năm nay sẽ khó vượt qua nếu không có những giải pháp ngay từ bây giờ. Dự báo khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong hai quý còn lại của năm 2007. Về tiêu thụ trong nước thì hàng dệt may Việt Nam tiếp tục phải đối phó với hàng nhập lậu từ Trung Quốc có giá thành rẻ và mẫu mã phong phú. Trên thực tế, thị trường trong nước của hàng dệt may Việt Nam là khá lớn nhưng chúng ta đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà và không tận dụng tốt những cơ hội của thị trường trong nước. Dự báo trong quý III, tình hình tiêu thụ hàng dệt may trong nước vẫn không có nhiều thay đổi.

Da giày cũng là một trong những mặt hàng tiếp tục có khả năng tăng trưởng sản xuất trong quý III. Da giầy Việt Nam đã khẳng định được uy tín và chất lượng đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Do vậy, lượng giày sản xuất được tiêu dùng trong nước và cả xuất khẩu nhưng xuất khẩu vẫn là chủ yếu. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của da giày Việt Nam là các nước EU. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của vụ kiện chống bán phá giá đối với giày mũ da từ đầu năm 2006 thị phần của giày dép Việt Nam tại thị trường này đã giảm đáng kể. Ngành da giày hiện nay còn đang phải đối đầu với tình trạng thiếu lao động và tình trạng cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu do theo cam kết, thuế suất đối với mặt hàng giày dép chỉ còn 40% so với 50% theo thuế ưu đãi MFN. Dự kiến trong quý III, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy tiếp tục tăng nhưng tốc độ chậm. Về tiêu thụ trong nước, ngành sản xuất da giày còn phải đương đầu với sức ép lớn từ phía thị trường. Dự báo tình hình tiêu thụ mặt hàng này vẫn giữ nguyên.

Về hai mặt hàng xi măng và thép, trong quý III  khả năng sản lượng sản xuất sẽ tăng và giá dự tính cũng sẽ đồng loạt tăng, một phần do các chi phí đầu vào như điện, than đá, xăng dầu tăng, một phần là do nhu cầu về hai mặt hàng này cũng sẽ tăng. Ước tính trong thời gian tới, khi vào chính vụ, giá xi măng sẽ còn tiếp tục tăng.

Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước trong quý III tiếp tục có những biến động. Riêng về ngành điện, do quý III diễn biến thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng vẫn diễn ra ở nhiều nơi, nhu cầu về điện sẽ tiếp tục tăng cao trong khi lượng điện cung cấp không ổn định, tình trạng thiếu điện sẽ nghiêm trọng hơn (hiện nay hơn 40% sản lượng điện quốc gia là do thủy điện cung cấp), đe dọa trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp. Bên cạnh đó, tất cả các dự án về điện đều bị chậm do các khâu như giải phóng mặt bằng, thủ tục di dời hay chậm về vốn, khó khăn trong khảo sát v.v... Trong khi đó, các nhà máy điện mới đưa vào hoạt động vẫn chưa thể hoạt động hết công suất thiết kế, khả năng ổn định hoạt động và hòa vào lưới điện quốc gia trong quý tới vẫn chưa cao. Theo dự kiến của ngành điện thì trong thời gian tới khả năng thiếu điện sẽ tiếp tục xảy ra do Việt Nam đang trong tiến trình phát triển, khả năng phải chạy tăng phụ tải lớn. Ngành điện sẽ tiếp tục phải mua điện từ phía Trung Quốc.

Ngoài những mặt hàng nổi bật của ngành công nghiệp nói trên thì trong năm nay, đặc biệt là trong quý III tới sẽ có một số nhóm mặt hàng gia tăng về giá trị xuất khẩu. Năm 2006, nhóm hàng này chiếm tỷ trọng 17% trong cơ cấu hàng xuất khẩu và mục tiêu 2007 sẽ đạt khoảng 10 tỷ USD, tăng trên 50% so với năm ngoái. Đó là những sản phẩm cơ khí, đóng tàu, biến thế và động cơ điện. Đặc biệt là ngành đóng tàu, sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh về giá trị sản xuất trong quý III. Theo Tổng công ty đóng tàu Vinashin, đơn hàng đóng tàu của Việt Nam đã hết năm 2010. Như vậy, không chỉ riêng các quý còn lại của năm mà cả những năm sau, ngành đóng tàu sẽ còn tiếp tục phát triển và góp giá trị lớn vào giá trị chung của ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp nội dung số được dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong quý này với những hỗ trợ từ phía Chính phủ, đặc biệt là từ khi có dự án trị giá 1 tỷ USD của tập đoàn Intel đầu tư vào khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã tạo ra một hiệu ứng đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài trong ngành công nghệ cao vào Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa đưa ra một danh sách các dự án sẽ đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. Nổi bật trong số này là dự án xây dựng một số khu công nghệ kỹ thuật cao của Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) chuyên sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực điện tử, với số vốn 5 tỷ USD được đặt tại tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Hiện tại, Foxconn đã đặt một văn phòng đại diện tại Bắc Ninh để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án này.

Nhận xét chung

Dự báo trong hai quý III và quý IV còn lại, bức tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng tuy còn rất nhiều khó khăn (như biến động bất thường của các yếu tố sản xuất đầu vào, việc thực thi các cam kết của hội nhập WTO, khả năng bị cạnh tranh gay gắt bởi các doanh nghiệp nước ngoài) nhưng vẫn tương đối sáng sủa. Dự báo trong thời gian tới, công nghiệp vẫn tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn, là đầu tầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam và là ngành đóng góp nhiều nhất vào GDP.

Sở dĩ có được điều này là do:

- Thứ nhất, Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO từ ngày 20/1/2007, tuy nhiên đến quý III, hiệu lực của việc hội nhập mới phát huy tác dụng một cách đầy đủ, nhất là đối với các ngành có xuất khẩu như dệt may, da giầy v.v... Các doanh nghiệp đã bắt đầu thực sự làm quen được với cơ hội và thách thức mới. Hội nhập WTO vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đây là sân chơi lớn mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn tham gia và khi được tham gia vào sân chơi này, các doanh nghiệp Việt Nam mới có cơ hội trưởng thành và phát triển.

- Thứ hai, từ nay đến cuối năm sẽ có nhiều công trình trọng điểm được triển khai xây dựng. Đây cũng là thời kỳ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tăng tốc hoạt động nhằm đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.

- Thứ ba, một số dự án công nghiệp trọng điểm của Việt Nam cũng bắt đầu được triển khai và tăng vốn trong giai đoạn này. 

c. Dịch vụ và thương mại nội địa

Trong quý III/2007, tình hình thị trường được dự đoán sẽ ổn định hơn, giá hàng hóa tiêu dùng vẫn tăng nhưng ở mức thấp. Tuy nhiên, trong quý III cũng có một số yếu tố gây bất lợi đến thị trường trong nước như: dịch cúm gia cầm có khả năng bùng phát mạnh mẽ, cả nước bước vào mùa bão lụt. Đây chính là những yếu tố sẽ ảnh hưởng tới nguồn cung lương thực, thực phẩm trên thị trường. Mặt khác, giá cả trên thế giới vẫn tiếp tục biến động, trong đó, nhiều nhóm mặt hàng quan trọng dự báo vẫn còn tăng nhẹ như xăng, phân bón... Điều này sẽ tạo ra sức ép lên giá cả một số mặt hàng trong nước. Hơn thế nữa, với những thông tin về sự vi phạm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của nhiều loại hàng hóa thực phẩm như hiện nay, dự báo trong các quý tới, tâm lý người tiêu dùng vẫn còn hoang mang, e ngại, vì thế sẽ hạn chế tiêu dùng các loại thực phẩm có nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ theo dõi sát sao những diễn biến bất lợi trên và có những điều chỉnh kịp thời nhằm tránh những tác động xấu tới thị trường. Bên cạnh đó, ở trong nước các mặt hàng chủ yếu như xi măng, sắt thép, thuốc chữa bệnh... có xu hướng ổn định về giá tạo điều kiện thuận lợi giúp thị trường ổn định hơn. Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng đối với mặt hàng xi măng, sắt thép, phân bón vẫn có xu hướng gia tăng, do vậy, dự báo sản lượng tiêu thụ sẽ tăng so với quý II, thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại trong nước. Dự báo thương mại nội địa sẽ tiếp tục tăng trưởng tích cực trong quý III.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong quý III dự báo đạt 174 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% so với quý II, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 9 tháng năm 2007 dự báo sẽ lên đến 506 nghìn tỷ đồng, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2006.

Biểu đồ 4: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 3 quý năm 2007

Lĩnh vực dịch vụ trong quý III dự báo sẽ tăng trưởng mạnh. Đối với ngành dịch vụ, nối tiếp quý II, trong những tháng cuối năm sẽ diễn ra nhiều hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch như: Hội thảo Nhịp cầu xuyên Á và các hoạt động du lịch nhân dịp 27/7; lễ hội biển Cửa Tùng; Hội nghị Lãnh đạo các Cơ quan du lịch quốc gia ASEAN – NTOs, chuẩn bị Diễn đàn du lịch ATF 2009 (tháng 7/2007); các hoạt động xúc tiến du lịch tại Đồng bằng Sông Cửu Long và công tác chuẩn bị Năm du lịch 2008 tại Cần Thơ với chủ đề Miệt vườn Sông nước Cửu Long (quý III); Festival Hoa Đà Lạt (tháng 12/2007) và một số sự kiện khác. Ngoài ra còn có nhiều hoạt động xúc tiến ngoài nước: Hiệp hội du lịch chủ trì tham gia xúc tiến du lịch tại Vladivostok và phối hợp với Hàng không Việt Nam tham gia Hội chợ Otdukh-Leisure vào tháng 9/2007; Hội chợ JATA tại Nhật Bản (tháng 9/2007); Hội chợ du lịch Côn Minh (tháng 11/2007); Hội chợ WTM tại Anh, các hoạt động quảng bá du lịch tại Mỹ... Vẫn đang trong mùa du lịch, vì vậy quý III hứa hẹn sự phát triển khá sôi động của lĩnh vực du lịch, thu hút lượng khách trong nước và quốc tế cao hơn so với quý II.

Cùng với sự phát triển của thương mại nội địa, của ngành du lịch cũng như hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tăng trưởng khá trong quý tới, các lĩnh vực dịch vụ khác như vận tải hàng hóa và hành khách, khách sạn và nhà hàng và các dịch vụ khác cũng sẽ tăng trưởng khá. Lĩnh vực bưu chính viễn thông trong quý III và đặc biệt là trong những tháng cuối năm 2007 sẽ tăng trưởng khá, thị trường bưu chính viễn thông sẽ phát triển hết sức sôi động do xu hướng cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các nhà cung cấp dịch vụ, cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ sẽ tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới và chất lượng cao, cung cấp cho khách hàng nhiều lựa chọn và với giá cả thấp hơn, có tác dụng kích cầu và thúc đẩy tiêu dùng.

2. Khả năng tăng trưởng xuất, nhập khẩu

Năm 2007 là năm đầu tiên nước ta được hưởng quy chế thành viên của WTO, là điều kiện thuận lợi cho hàng xuất khẩu tiếp cận với nhiều thị trường hơn và với mức thuế thấp hơn, qua đó góp phần quan trọng trong việc tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu tăng kim ngạch XK năm 2007 là 20% so với năm 2006 phụ thuộc rất nhiều vào sự thành công trong xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp và chế biến chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm điện tử và vi tính, dây điện và dây cáp điện… cũng như các mặt hàng công nghiệp mới như sản phẩm cơ khí, đóng tàu, sản phẩm hoá chất.

Dự báo kim ngạch xuất khẩu quý III năm 2007 đạt khoảng 13 tỷ USD, tăng 25,48% so với cùng kỳ năm 2006, bằng 27,8% kế hoạch cả năm. Kim ngạch nhập khẩu quý III đạt khoảng 15,5 tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm 2006.

• Về xuất khẩu

Trong quý III năm 2007, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước ASEAN vẫn là các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Thị trường Mỹ có nhu cầu lớn đối với nhiều mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu như đồ gỗ, thủy sản …. Do đó xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này trong thời gian tiếp theo được dự báo rất khả quan. Nhờ khung pháp lý về thị trường đã được mở hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, cũng như dành cơ chế ưu đãi thuế quan phổ cập dành cho các nước đang pháp triển nên xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU tiếp tục được đẩy mạnh. Đối với thị trường Nhật Bản, dự báo tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này có nguy cơ giảm. Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong thời gian tới cũng gặp nhiều bất lợi do việc thực hiện các chính sách hạn chế của Trung Quốc cũng như việc cạnh tranh ngày càng gay gắt với sản phẩm tương đồng với mình của các nước trong khu vực Đông Á

Bảng 5: Một số chỉ tiêu về xuất nhập khẩu 3 quý năm 2006-2007

Đơn vị: tỷ USD

Chỉ tiêu

Năm 2006

Năm 2007

Quý I

Quý II

Quý III

Quý I

Ước Quý II

Dự báo Quý III

Kim ngạch xuất khẩu

8,596

9,8

10,360

10,484

11,75

13

Kim ngạch nhập khẩu

8,513

11,1

11,950

11,799

14,10

15,5

Mức nhập siêu

+0,083

-1,3

-1,590

-1,315

 -2,35

-2,5

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu (%)

20,3

27,6

16,78

21,96

19,9

25,48

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu (%)

1,9

9,4

27,8

33,6

27

29,7

 

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực quan trọng vẫn tiếp tục được khai thác và phát huy. Tuy nhiên, những mặt hàng xuất khẩu này cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Cụ thể như :

+ Đối với mặt hàng dệt may:

Dệt may vốn là mặt hàng có khả năng gia tăng kim ngạch lớn với mức tăng trưởng trên 30% và là một trong những ngành được kỳ vọng nhiều nhất trong các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong quý III năm nay có nguy cơ giảm. Theo báo cáo của các doanh nghiệp dệt may, các hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ thực hiện trong quý III nhìn chung giảm mạnh, do các doanh nghiệp nhập khẩu e ngại trước cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ lên hàng dệt may Việt Nam chính thức được áp dụng tháng 5/2007. Các đơn hàng dài hạn chỉ còn tập trung ở thị trường châu Âu, Nhật Bản... Tuy nhiên, với những thách thức lớn như tiếp tục phải cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Ấn Độ và mức độ sụt giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU do rào cản của các hàng rào phi thuế quan làm cho mục tiêu xuất khẩu 5,2 tỷ USD của ngành dệt may trong năm nay sẽ khó đạt được.

Trong khi đó nội lực của ngành còn hạn chế, ngành dệt không đáp ứng đựơc nhu cầu nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu, chủ yếu ngành phải nhập khẩu nguyên liệu để may gia công, giá trị tăng thêm thấp, đồng thời lại chịu sự biến động của giá nhập nguyên liệu đầu vào. Theo dự báo, giá nguyên vật liệu trong hàng dệt may có xu hướng tăng trong thời gian tới, như vậy sản phẩm dệt may xuất khẩu trong quý III sẽ bị đội giá lên. Chi phí vận chuyển ở Việt Nam vẫn thuộc hàng đắt nhất trên thế giới, cũng là một nguyên nhân khiến giá hàng xuất khẩu tăng, giảm năng lực cạnh tranh hàng của nước ta so với các nước khác. Thêm vào đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm thương trường, hiểu biết về luật lệ, văn hoá kinh doanh của thị trường nước ngoài còn hạn chế.

+ Đối với mặt hàng da giày:

Da giày là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng kim ngạch xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm có tốc độ tăng trưởng không cao. Dự kiến trong quý III, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày tiếp tục tăng nhưng tốc độ chậm. Do mặt hàng này vẫn gặp những khó khăn như trong 2 quý đầu năm, như: thu hẹp thị phần trên thị trường EU do bị áp hạn ngạch, sản xuất trong nước chưa ổn định, cạnh tranh với các thành viên khác trong WTO trên các thị trường truyền thống,…Tuy nhiên, vẫn có những tín hiệu khả quan cho mặt hàng này, như: tăng lượng xuất khẩu sang các thị trường mới, tác động tích cực từ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu nói chung và xuất khẩu mặt hàng giày da nói riêng đang phát huy hiệu quả, thuế suất vào một số thị trường sẽ giảm do được hưởng quy chế tối huệ quốc khi là thành viên WTO...

+ Cà phê:

Trong quý III tới, giá cà phê sẽ tăng trở lại do 2 vụ động đất mới đây ở đảo Sumatra của Inđônêxia - nước sản xuất cà phê robusta lớn thứ 2 thế giới, sau Việt Nam - ảnh hưởng tới sản lượng cà phê của nước này, khiến lượng cung trên thị trường giảm, đẩy giá cà phê tăng lên. Như vậy, xuất khẩu cà phê trong quý III của ta sẽ được giá cao hơn, song lượng cà phê xuất khẩu lại giảm mạnh vì đã cạn kiệt lượng hàng do xuất khẩu quá nhiều vào các quý trước. Thêm vào đó, vùng cà phê Tây nguyên đang chịu nạn khô hạn gay gắt, có thể dẫn đến mất mùa. Vì thế sản lượng cà phê trong quý tới sẽ thiếu nguồn hàng để cung ứng cho thị trường và phải đợi đến vụ mùa ba tháng cuối năm mới có hàng để xuất.

+ Gạo:

Dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ giảm về sản lượng xuất khẩu do nguồn cung trong nước bị hạn chế, nhưng có khả năng tăng về kim ngạch do giá gạo thế giới vẫn đang ở mức cao. Thị trường và giá xuất khẩu mặt hàng này nhìn chung thuận lợi bởi nhu cầu gạo thế giới cao và nguồn cung khan hiếm sẽ đẩy giá mặt hàng này tiếp tục tăng. Điều quan trọng đối với mặt hàng này là cung cấp thông tin và dự báo chính xác, kịp thời để Hiệp hội lương thực Việt Nam có thể khuyến nghị doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu vào những thời điểm có lợi nhất về giá. Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của sâu bệnh và thời tiết trong quý III, công tác điều hành xuất khẩu gạo cần chủ động và linh hoạt theo nguyên tắc bảo đảm an ninh lương thực, người sản xuất gạo và DN xuất khẩu gạo cùng có lợi.

+ Thuỷ sản:

Xuất khẩu thủy sản tuy chịu sự kiểm tra chặt chẽ hơn về chất lượng, nhưng trong quý III được dự báo là vẫn tiếp tục tăng trưởng tương đối cao, tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành và tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên. Dự kiến kế hoạch 3,6 tỷ USD giá trị XK thuỷ sản trong năm nay là hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên, chế biến thuỷ sản trong nước phục vụ xuất khẩu sẽ vẫn gặp khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu trong nước, khiến một số doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu. Tình trạng này khiến cho việc kiểm soát chất lượng nguyên liệu là hết sức khó khăn, trong khi hàng xuất khẩu thuỷ sản của ta đang bị kiểm tra chất lượng ngày càng gắt gao ở nhiều thị trường. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thủy sản sẽ có sự thay đổi. Cá tra và basa sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tôm sẽ chững lại do vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Thị trường xuất khẩu các mặt hàng này đã được củng cố ở các nước EU và đang tiếp tục được mở rộng sang các thị trường mới ở châu Á, châu Mỹ và châu Úc.

Ngoài ra, những trở ngại lớn đối với sự phát triển xuất khẩu thuỷ sản hiện nay vẫn là năng lực quản lý còn hạn chế, thiếu quy hoạch phát triển mang tính tổng thể dẫn đến tình trạng nuôi trồng khai thác một cách tràn lan, suy thoái môi trường nghiêm trọng, chất lượng sản phẩm còn chưa được đảm bảo, chưa xây dựng thương hiệu có giá trị cho ngành. Bên cạnh đó, nhiều yếu kém trong nghiên cứu khoa học như lai tạo giống, công nghệ nuôi trồng và khai thác đảm bảo sự phát triển bền vững cũng là những yếu kém cản bước phát triển của thuỷ sản Việt Nam,  đe dọa đến sự tăng trưởng bền vững của ngành thủy sản.

+ Thủ công mỹ nghệ:

Nhóm ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chiếm một vị trí rất quan trọng. Đây là ngành hàng được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển và đạt kim ngạch xuất khẩu cao, do có nhiều lợi thế về nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, lợi thế về thị hiếu tiêu dùng mặt hàng này ở các thị trường xuất khẩu cao, thị trường xuất khẩu rộng lớn và Việt Nam đã xây dựng được một thương hiệu có giá trị về mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường thế giới. Dự kiến trong quý III, xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ vẫn tiếp tục tăng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn tới các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này vẫn phải đối mặt với một số khó khăn như: nguồn nguyên liệu có nguy cơ bị cạn kiệt do đã khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu tư phát triển, khiến các doanh nghiệp phải nhập khẩu một số loại nguyên liệu từ Lào, Campuchia và Inđônêxia... Thứ hai, mẫu mã các sản phẩm chưa phong phú, chưa có tính độc đáo, sáng tạo mà chủ yếu dựa trên đơn đặt hàng. Thứ ba, mạng lưới sản xuất kinh doanh hàng thủ công đa số nhỏ lẻ, nhiều cơ sở không có điều kiện tham gia XK trực tiếp, các đơn đặt hàng thường qua trung gian nên hạn chế phát triển... Ngoài ra còn hàng loạt các khó khăn trong sản xuất như khó tiếp cận với nguồn tín dụng cho vay, thủ tục vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp, khu vực nông thôn và người nghèo mất quá nhiều thời gian, lượng tín dụng vay không đủ đáp ứng so với yêu cầu để đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Các đơn vị sản xuất còn thiếu mặt bằng để mở rộng sản xuất, điều kiện về cơ sở hạ tầng rất thấp kém; chi phí vận chuyển quá cao...

+ Các sản phẩm khác:

Việt Nam là nước có ảnh hưởng lớn đến thị trường hạt tiêu thế giới do chiếm hơn 50% thị phần. Giá hạt tiêu thế giới trong thời gian vừa qua tăng kéo theo giá hạt tiêu trong nước tăng. Hạt tiêu vẫn là mặt hàng có khả năng xuất khẩu và đạt kim ngạch cao nếu như Việt Nam hạn chế được tình trạng bán ra ồ ạt. Chè cũng là một mặt hàng được dự báo là sẽ tăng sản lượng xuất khẩu và mở rộng được thị trường. Xuất khẩu rau, hoa, trái cây vẫn có triển vọng xuất khẩu cao do bắt đầu bước vào vụ thu hoạch nhiều loại hoa quả như vải thiều, nhãn, sầu riêng. Thị trường xuất khẩu rau, đậu các loại vẫn chủ yếu là Trung Quốc và Ấn Độ. Giá cao su thế giới và Việt Nam trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cao. Tuy nhiên xuất khẩu cao su của Việt Nam có nguy cơ giảm do năng suất mủ cao su thấp.

• Về nhập khẩu:

Kim ngạch nhập khẩu trong quý III tiếp tục tăng nhẹ so với quý II. Trong đó một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị phụ tùng, thép các loại, linh kiện điện tử, phân bón, xăng dầu….

Dầu thô tiếp tục là mặt hàng có nhiều biến động về giá do những ảnh hưởng của thị trường thế giới, cả về kinh tế, chính trị. Việt Nam là nước phải nhập khẩu toàn bộ xăng dầu do chưa có nhà máy lọc dầu nên chịu những ảnh hưởng rất lớn từ việc dầu thô tăng giá.

Trong quí III năm nay lượng nhập khẩu phân bón sẽ tăng cao do phải đáp ứng nhu cầu trong vụ hè thu sớm và hè chính. Tình hình nhập khẩu trái cây trong mùa hè bắt đầu tăng mạnh.

3. Khả năng đảm bảo ổn định vĩ mô

3.1. Cân đối thu chi ngân sách

Tình hình thực hiện thu, chi ngân sách quý III/2007 có nhiều dấu hiệu tích cực, tạo sự biến chuyển có ý nghĩa nhất định trong thu chi ngân sách cả năm. Thu ngân sách tính đến hết quý III/2007 ước thực hiện đạt 173 nghìn tỷ đồng, bằng 61,4% dự toán năm. Chi NSNN ước thực hiện đạt 237 nghìn tỷ đồng, bằng 66,3% dự toán năm. 

Bảng 6 : Tỷ trọng thực hiện kế hoạch năm trong thu, chi ngân sách của các quý năm 2007 (%)

TT

Chỉ tiêu

Quý I

Ước
Quý II

Dự báo
 Quý III

CK Quý
III/2006

I

Thu ngân sách

21,7

41,5

61,4

73,8

1

Thu nội địa

23,1

43,7

68,7

69,9

2

Thu từ dầu thô

19,7

30,0

45,5

82,7

3

Thu từ hoạt động XNK

20,5

40,0

62,0

71,8

II

Chi ngân sách

21,4

40,0

66,3

72,1

1

Chi ĐTPT

19,20

35,4

60,4

69,2

2

Chi thường xuyên

23,6

45,0

72,0

77,3

3

Chi trả nợ, viện trợ

24,0

40,1

70,6

78,3

 

Trong cơ cấu thu ngân sách, thu nội địa cho NSNN tăng cao hơn so với các quý trước, do trong qúy III các hoạt động sản xuất - kinh doanh sẽ được đẩy nhanh, mạnh và khẩn trương hơn. Thu từ dầu thô có khả năng tăng lên do giai đoạn sắp tới giá dầu thô được dự báo sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao, vượt so với mức giá Chính phủ dự toán (62 USD/thùng). Ngoài ra, kim ngạch xuất nhập khẩu quý III cũng sẽ tăng cao, khiến thu NS từ hoạt động XNK tăng; thị trường bất động sản ấm lên, nhờ đó các khoản thu từ đất đai sẽ tăng.

Về phía quản lý nhà nước, từ ngày 1/7/2007, Luật Quản lý thuế chính thức có hiệu lực, sẽ trao quyền tối đa cho cơ quan thuế, cơ quan hải quan, tạo điều kiện cho cơ quan thuế, cơ quan hải quan hoàn thành vượt dự toán, Bên cạnh đó, các biện pháp tăng cường công tác quản lý và chống thất thu ngân sách cũng đang ngày càng phát huy hiệu quả, tăng thuế thu từ doanh nghiệp, hộ kinh doanh gia đình, thuế thu nhập của người có thu nhập cao,… 

Trong cơ cấu chi ngân sách, tốc độ giải ngân vốn thuộc NSNN bao gồm cả chi thường xuyên, chi ĐTPT và chi trả nợ, viện trợ sẽ được đẩy mạnh hơn do bước sang giai đoạn nửa cuối năm tài chính, khối lượng quyết toán tăng lên. Tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án cũng sẽ được thúc đẩy nhanh hơn trong quý này. Tuy nhiên, chi ngân sách cho ĐTPT, đặc biệt chi cho XDCB thực hiện vẫn chậm hơn so với các năm trước đó. Nhìn chung có một số yếu tố tác động làm giảm tốc độ chi ngân sách trong năm 2007 như sau: thứ nhất, triển khai thực hiện phân bổ ngân sách và phân cấp quản lý theo Luật Ngân sách năm 2007 cũng vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, gây chậm tiến độ thực hiện. Thứ hai, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã và đang được các cấp, các ngành triển khai ngày càng tích cực và hiệu quả, nhờ đó sẽ làm giảm một khoản không nhỏ trong chi ngân sách nhà nước trong năm, Thứ ba, khoản chi NS cho cải cách tiền lương giảm so với dự toán, do năm 2007 chưa có kế hoạch thực hiện điều chỉnh lương.

3.2. Ổn định giá cả thị trường

Giá tiêu dùng

So với quý II/2007, tình hình giá cả quý III tiếp tục có những biến động tăng giá nhẹ. Dự báo quý III chỉ số giá tiêu dùng tăng thêm khoảng 1,4%, tính chung cả 3 quý giá tiêu dùng tăng so với T.12/2006 khoảng 6,1%. Mức tăng có xu hướng ổn định trong tháng 7 và 8. Trong tháng 9 sẽ tăng cao hơn. Cụ thể biến động tăng giá ở một số nhóm hàng như sau:

- Nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng hơn so quý II do bước vào mùa nắng nóng, nhu cầu tiêu thụ đồ uống sẽ tăng lên.

- Nhóm hàng may mặc, giầy dép, mũ nón vẫn tiếp tục tăng giá do thu nhập người dân càng được cải thiện, nhu cầu mua sắm cho may mặc có xu hướng tăng lên trong mấy năm trở lại đây. Thêm vào đó, tháng 9 có đợt nghỉ lễ nên nhu cầu mua sắm chuẩn bị cho đi tham quan, du lịch cũng tăng lên.

- Nhà ở và vật liệu xây dựng có xu hướng giảm nhẹ, do thị trường bất động sản có dấu hiệu trầm lắng xuống, tuy nhiên mức tăng của nhóm hàng này vẫn cao nhất nhì trong 10 nhóm hàng thống kê.

- Thiết bị và đồ dùng tăng nhẹ, do có 2 xu hướng tác động trái ngược nhau. Một mặt, nhu cầu thiết bị, đồ dùng, đặc biệt là thiết bị phục vụ sinh hoạt trong hè tăng lên, gây áp lực tăng giá hàng bán, mặt khác do tác động của thuế nhập khẩu một số nhóm hàng giảm, khiến giá bán có thể giảm nhẹ.

- Dược phẩm, dịch vụ y tế tuy mức tăng thấp hơn so với năm 2006, song tốc độ tăng giá đang có chiều hướng tăng lên nên cần có biện pháp kiềm chế, kiểm soát giá cả của nhóm chỉ tiêu này.

- Giáo dục sẽ tăng cao nhất trong quý III do sắp vào mùa khai giảng, nhu cầu mua sắm của nhóm hàng này sẽ tăng lên.

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống sẽ tăng mạnh trong quý tới, do ảnh hưởng của giá xăng dầu tăng từ ngày 7/5 sang đến thời điểm này giá hàng tiêu thụ sẽ bắt đầu tăng giá sau một thời gian các nhà sản xuất và phân phối nghe ngóng tình hình. Dự đoán giá hàng lưu thông tăng khoảng 5-7%. Cùng với nguyên nhân tăng giá xăng dầu, nhóm chỉ tiêu phương tiện đi lại, bưu điện cũng có thể tăng giá trong quý tới, đặc biệt phương tiện đi lại bằng taxi.

- Văn hóa, thể thao, giải trí cũng có xu hướng tăng nhẹ trong quý và tăng cao nhất trong tháng 9, do dịp nghỉ lễ 2/9 nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao.

Xét trên tổng thể, giá cả tiêu dùng trong quý III/2007 sẽ chịu một số tác động chung đến tất cả các nhóm hàng. Thứ nhất, theo quy luật những quý cuối năm hoạt động sản xuất - kinh doanh tăng mạnh hơn các quý đầu năm, do đó mặt bằng giá chung sẽ tăng lên. Thứ hai, giá các nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới và trong nước có xu hướng vẫn tiếp tục tăng (như giá dầu thô, giá xăng, thép, phân bón,…), khiến cho chi phí sản xuất và chi phí vận chuyển của các doanh nghiệp tăng lên, đẩy giá tiêu dùng tăng. Thứ ba, trước tình trạng dịch cúm gia cầm bất ngờ tái bùng phát vào qúy II và còn có khả năng tiếp tục bùng phát mạnh mẽ trong qúy III, nguy cơ nguồn cung thực phẩm trên thị trường trong quý này sẽ khan hiếm, khiến giá cả nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng lên. Tuy nhiên, do các cơ quan quản lý nhà nước sẽ có những biện pháp để quản lý về giá, đảm bảo bình ổn thị trường và thực hiện mục tiêu kế hoạch về chỉ số giá tiêu dùng tăng nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GDP, nên giá hàng hóa tiêu dùng sẽ vẫn tăng nhưng ở mức thấp hơn so với quý II.

Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, với những động thái hiện nay của thị trường trong nước và thế giới, có nhiều khả năng năm nay sẽ là năm thứ tư liên tiếp giá tiêu dùng sốt nóng (Trích Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, số 43 (1006) ngày 30/5/2007). Nhận định trên không hẳn là không có lý, bởi nó dựa trên những căn cứ sau đây:

Thứ nhất, là một nền kinh tế có độ mở ở đầu vào nhập khẩu (NK) rất lớn, đặc biệt là nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu. Cho nên sốt nóng giá cả thế giới sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất trong nước, làm tăng giá cả hàng hóa tiêu dùng nội địa.

Thứ hai, ở phía đầu ra của nền kinh tế, do nguyên liệu vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu (XK) của nước ta, cho nên đây cũng chính là kênh dẫn sốt nóng giá cả thế giới lan truyền vào thị trường trong nước.

Điển hình nhất trên phương diện này có lẽ là những tác động cơn sốt nóng giá gạo thế giới có nhiều dấu hiệu là sẽ vẫn tiếp tục cho đến hết năm nay. Theo số liệu thống kê của IMF, giá gạo 5% tấm của Thái Lan đã tăng từ 309,3 USD/tấn tháng 12/2006 lên 322,3 USD/tấn trong tháng 4 vừa qua. Kéo theo đó là giá gạo XK bình quân trong 5 tháng qua của nước ta đã đạt kỷ lục 313,49 USD/tấn, tăng 14,31% so với cùng kỳ năm 2006. Đây hiển nhiên cũng là lý do chủ yếu khiến cho giá lương thực trong nước 5 tháng qua tăng tổng cộng 5,1%. Xét trên bình diện rộng hơn, trong bối cảnh "hậu El' Nino" hiện nay, việc giá gạo nói riêng và giá nông sản thế giới nói chung sẽ còn tiếp tục leo thang. Trong điều kiện như vậy, "kịch bản" giá nông sản trong nước liên tục nóng lên giống như năm "El' Nino thế kỷ" 1998 và cũng chính là năm giá tiêu dùng sốt nóng kỷ lục trong vòng 8 năm 1996-2003 đã, đang và sẽ còn tiếp tục lặp lại trong năm nay là điều khó tránh khỏi.

Thứ ba, cùng với việc "chạy đua" với sốt nóng giá cả thế giới ở cả đầu vào và đầu ra của nền kinh tế như nói trên, chúng ta lại đang ở trong tình trạng phải trả "món nợ" sốt nóng giá cả thế giới không nhỏ từ những năm trước để lại.

Xét trên tổng thể, như báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá XI đã khẳng định: "Từ năm 2007, thực hiện cơ chế giá thị trường đối với các mặt hàng xi măng, sắt thép, phân bón, giấy, than (trừ than cung ứng cho phát điện); không bù lỗ giá xăng, phấn đấu đến cuối năm 2007 hoặc đầu năm 2008 không bù lỗ giá dầu; tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình điều chỉnh giá bán điện..." giá bán điện đã được điều chỉnh ngay từ ngày đầu năm và tiếp theo là đợt đầu tiên điều chỉnh giá bán than cho các hộ tiêu dùng lớn nhằm làm giảm sự cách biệt quá lớn giữa giá than trong nước và giá than thế giới đã đại nhảy vọt gần gấp hai lần từ năm 2004.

Tiếp theo, sau khi đã điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước để bắt kịp giá thế giới vào đầu tháng 3 năm nay, với quyết định trao quyền định giá xăng cho các DN, giá bán lẻ xăng đã được điều chỉnh tăng lần thứ hai vào ngày 7/5/2007 vừa qua. Với đợt tăng giá này, mà thực chất là các cơ quan quản lý nhà nước đã có bước đi quan trọng trong việc xoá bỏ chính sách bù giá cho người tiêu dùng, giá bán trong nước đã bám sát hơn giá thế giới. Các kết quả tính toán cho thấy, nếu như giá xăng bình quân trong năm nay sẽ được đẩy lên mức bình quân 12.000 đồng/lít, tức là tăng 9,1% so với giá xăng Mogas 92 ở mức 11.000 đồng/lít trước ngày 7/5 vừa qua, thì chỉ riêng việc điều chỉnh tăng giá mặt hàng này cũng đã có thể làm khuếch đại "rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội" thêm 0,47%.

Rõ ràng, việc đồng loạt điều chỉnh tăng giá các mặt hàng thiết yếu này của nền kinh tế cuối cùng sẽ được thể hiện ở việc mặt bằng giá tiêu dùng của nền kinh tế sẽ bị đẩy lên. Không những vậy, như thực tiễn của nền kinh tế nước ta rất nhiều năm qua cho thấy, kèm theo bất kỳ đợt điều chỉnh tăng giá các mặt hàng thiết yếu nào cũng là tình trạng "tát nước theo mưa" hầu như ở mọi nơi đối với hầu hết các loại mặt hàng. Đây cũng chính là nhân tố chủ yếu khiến cho các nhà quản lý nước ta trong những năm qua thường xuyên bị rơi vào tình trạng phải "rượt đuổi" thực tế thị trường khi đưa ra dự báo về tác động của các giải pháp tăng giá các mặt hàng thiết yếu.

Thứ tư, trong bối cảnh cả đầu ra và đầu vào của nền kinh tế cùng sốt nóng như vậy, cộng với việc chúng ta đang tích cực trả những "món nợ" tồn đọng lớn do sốt nóng giá cả thế giới từ những năm trước, sự phát triển vốn đã sôi động của nền kinh tế lại được bổ sung bằng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang ồ ạt đổ vào chắc chắn sẽ là yếu tố cộng hưởng làm cho mặt bằng giá tiêu dùng càng bị đẩy lên cao.

Thứ năm, mức tăng 4,72% của giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm (trung bình 0,78%/tháng) là mức tăng rất cao so với cùng kỳ ba năm sốt nóng liên tục vừa qua.

Tóm lại, trên cái nền rất cao như vậy, nền kinh tế lại đang hội tụ một loạt yếu tố tác động cả từ bên trong lẫn bên ngoài cùng gây sốt nóng, việc giá tiêu dùng sẽ còn tiếp tục bị đẩy lên cao trong những tháng tới và năm 2007 này sẽ là năm thứ tư liên tiếp có tỷ lệ lạm phát cao là điều khó có thể tránh khỏi.

Giá vàng trong quý III có khả năng tiếp tục tăng, với tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng của quý II, do giá vàng trên thế giới tăng (giá vàng trên thế giới tăng phụ thuộc vào cầu tiêu thụ vàng, trong quý III lượng cầu tiêu thụ tăng cao do bắt đầu vào mùa cưới ở Ấn Độ - nước có lượng tiêu thụ vàng lớn nhất trên thế giới). Tình trạng đầu cơ vàng phụ thuộc vào xu hướng đầu tư tiền nhàn rỗi trong dân cư, như chuyển mạnh hay giảm đầu tư sang thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán hay đầu tư sản xuất - kinh doanh,

Giá đô la Mỹ trong nước vẫn có xu hướng giảm giá như tình trạng các quý đầu năm. Dự báo tốc độ tăng giá đô la Mỹ năm 2007 sẽ được duy trì ở mức độ thấp, trong khoảng 1% như năm 2006. Nguyên nhân chính vẫn là do nước ta kiềm chế mức độ tăng giá đồng VND so với đồng USD để duy trì lợi thế cạnh tranh hàng xuất khẩu của ta.

4. Khả năng thực hiện vốn đầu tư phát triển

Dự báo tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện  trong quý III là 118 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 10% về khối lượng vốn so với quý II, đưa tổng vốn đầu tư phát triển trong 9 tháng lên khoảng 313 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2% kế hoạch năm.

Triển vọng thực hiện vốn đầu tư phát triển tăng khá trong quý III do một số nguyên nhân sau:

- Vốn đầu tư thuộc NSNN và vốn tín dụng:

Việc Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp quy (Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 6/4/2007 về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư; Quyết định số 52/2007/QĐ-TTg ngày 16/4/2007 về chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư nhà nước; Thông tư 27/2007/TT-BTC hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Thông tư 28/2007/TT-BTC về hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ; Thông tư 33/2007/TT-BTC hướng dẫn về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn nhà nước, cũng như chấn chỉnh việc theo dõi, giám sát, thanh quyết toán vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước, giúp cho việc thực hiện vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước ngày càng đi vào quy trình cụ thể, rõ ràng minh bạch hơn, giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân trong quý III và quý IV năm nay.

Đối với thực hiện các dự án, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép chuyển công tác giải phóng mặt bằng của các dự án lớn do các bộ, cơ quan Trung ương quản lý trong lĩnh vực giao thông thuỷ lợi về cho các địa phương thực hiện thành một tiểu dự án riêng. Điều này sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, giúp thực hiện giải ngân vốn hiệu quả hơn.

Ngoài ra, những kết quả đạt được trong đẩy mạnh cải cách hành chính cũng góp phần không nhỏ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư. Đồng thời, trước tình trạng giải ngân chậm trong 2 quý đầu năm, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương sẽ thực hiện mọi biện pháp, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc để khởi công một số dự án đúng thời hạn; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành vốn đầu tư trong năm.

Với những biện pháp chỉ đạo đó thì có thể tin tưởng rằng các dự án sử dụng từ các nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng đầu tư sẽ được triển khai hiệu quả hơn.

Vốn FDI: Từ đầu năm đến nay, nhiều tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã đến Việt Nam để tìm hiểu, xúc tiến công tác đầu tư. Đến tháng 5/2007 đã có gần 40 dự án đầu tư nước ngoài đang xúc tiến, chuẩn bị đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn lên đến 35,2 tỷ USD. Chỉ cần 1/3 số vốn đó thành hiện thực thì chúng ta có thể hoàn thành vượt mức kế hoạch thu hút hơn 12 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài trong năm nay. Như vậy có thể nói, nếu Việt Nam làm tốt công tác cấp phép và triển khai thực hiện thì chắc chắc sẽ đạt được không thấp hơn con số mà mục tiêu đề ra.

Trong thời gian tới, đầu tư vào Việt Nam hứa hẹn sẽ còn sôi động hơn vì môi trường đầu tư của Việt Nam đang tích cực được cải thiện. Thêm nữa các nhà đầu tư nước ngoài đang rất quan tâm tới các dự án cơ sở hạ tầng như đường cao tốc, cảng biển, điện, cấp nước, ...

Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia

Các tin tức khác

>   Thẻ trả trước vô danh: Số dư tối đa 5 triệu đồng (10/07/2007)

>   VNPT chuẩn bị lập ngân hàng (10/07/2007)

>   Thời hạn quyết toán thuế với doanh nghiệp bị giải thể (10/07/2007)

>   Hai hình thức chính trong gian lận thuế xuất nhập khẩu (10/07/2007)

>   SCB Phát triển dịch vụ hiện đại (10/07/2007)

>   ICB hợp tác toàn diện với Hội Luật gia VN (10/07/2007)

>   Ngăn nguy cơ rửa tiền qua thẻ ngân hàng (09/07/2007)

>   Giảm thuế nhập khẩu 26 nhóm hàng hóa (09/07/2007)

>   Bảo hiểm tiền trước rủi ro bị cướp (09/07/2007)

>   Đồng loạt tăng lãi suất ngoại tệ, vì sao? (09/07/2007)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật