ĐBQH: Cần thiết rà soát, sửa đổi quy định về đối tượng không chịu thuế
Đại biểu Trần Thị Thanh Hương nêu rõ, qua một thời gian dài thực hiện, Luật Thuế giá trị gia tăng đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định với nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, vì vậy, việc sửa đổi Luật là cần thiết. Tuy nhiên, cần rà soát, sửa đổi về đối tượng không chịu thuế để phù hợp với thực tiễn.
Chiều 24/6, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV - tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Đại biểu Trần Thị Thanh Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang
|
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Thị Thanh Hương nêu rõ, qua một thời gian dài thực hiện, Luật Thuế giá trị gia tăng đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định với nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, vì vậy, việc sửa đổi Luật là cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 và Đề án định hướng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) có tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân, người dân và doanh nghiệp.
Liên quan tới đối tượng không chịu thuế, Điều 5 dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến đối tượng không chịu thuế và nhiều nội dung sửa đổi nhằm đảm bảo nhất quán các thuật ngữ, khái niệm quy định tại các luật chuyên ngành như Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản, Luật Các tổ chức tín dụng,... Theo đại biểu, việc rà soát, sửa đổi quy định về đối tượng không chịu thuế theo hướng loại bỏ hoặc bổ sung một số loại hàng hóa, dịch vụ so với quy định hiện hành để phù hợp với thực tiễn là rất cần thiết.
Tuy nhiên, bên cạnh các trường hợp không phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu ra nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào thì hiện còn một số trường hợp khác như trường hợp các tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, hợp tác xã... Chính vì vậy, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo giải trình, làm rõ hơn cơ sở pháp lý và đánh giá tác động đối với việc xác định các trường hợp đã được quy định tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP mà không được tiếp tục cho phép khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và đầu ra không phải tính thuế giá trị gia tăng như dự thảo Luật xác định.
Đồng quan điểm, đại biểu Trần Văn Tiến bày tỏ thống nhất sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục quản lý thuế và tạo môi trường pháp luật thống nhất, đồng bộ áp dụng trong nền kinh tế cũng như việc khắc phục những hạn chế bất cập của Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành.
Đại biểu Trần Văn Tiến - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc
|
Góp ý cụ thể về người nộp thuế (Điều 4), đại biểu Trần Văn Tiến cho biết, tại khoản 1, Điều 2 Luật Quản lý thuế quy định, người nộp thuế bao gồm: Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Để đảm bảo tính thống nhất giữa Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật Quản lý thuế, đại biểu đề nghị thay từ “Hộ” bằng cụm từ “hộ gia đình, hộ kinh doanh”.
Về đối tượng không chịu thuế (Điều 5), đại biểu đề nghị làm rõ cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh khi mua các sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi… như quy định thì có thuộc đối tượng không chịu thuế không? Đồng thời làm rõ cơ sở pháp lý tại sao các đối tượng này khi mua các sản phẩm theo quy định tại khoản 1 không phải tính, nộp thuế giá trị gia tăng nhưng lại được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Về thuế suất (Điều 9), tại điểm d khoản 2 về mức thuế suất 5%, quy định: Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường, trừ các sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của luật này.
Nhưng tại khoản 1 Điều 5 quy định về đối tượng không chịu thuế: Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt, bán ra và ở khâu nhập khẩu. Do đó, đại biểu đề nghị xem lại quy định tại khoản 2, Điều 9 đang có sự mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 5 về mức thuế suất.
Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào (Điều 14), tại điểm c khoản 2 quy định: Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản này còn phải có: hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu; phiếu đóng gói, vận đơn, chứng từ bảo hiểm hàng hóa (nếu có); trừ một số trường hợp đặc thù theo quy định của Chính phủ.
Đại biểu Trần Văn Tiến cho rằng quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho người nộp thuế. Đại biểu đề nghị bỏ nội dung về chứng từ bảo hiểm hàng hóa.
Nhật Quang
FILI
|