Friend-shoring là gì, vì sao bị phản đối?
Thêm một khái niệm mới được khai sinh trong hoạt động đầu tư, giao thương quốc tế: Friend-shoring. Nó là gì và vì sao một số nhà kinh tế cho rằng Friend-shoring lợi bất cập hại?
Vào lúc cao điểm của toàn cầu hóa, khái niệm “offshore” được nhắc đến nhiều, nó chỉ việc chuyển một phần hay nhiều hoạt động của doanh nghiệp ra nước ngoài để tận dụng ưu đãi thuế, nhân công giá rẻ, quy định môi trường còn dễ chịu. Sau nhiều trắc trở, nhất là khi xảy ra các cuộc chiến thương mại giữa các nước, làm cho toàn cầu hóa bị đứt gãy, một khái niệm khác nảy sinh để thay thế: onshore – tức đưa các hoạt động đã offshore trước đây quay về nguyên quán.
Thế nhưng muốn onshore đâu phải dễ; sau nhiều năm đã quen với thị trường lao động giá rẻ, cần cù, ít đòi hỏi ở nước khác, nhiều doanh nghiệp mới thấy không dễ gì chuyển nhà máy trở về quê cũ vì tìm không ra nguồn nhân lực; chuỗi cung ứng vẫn phụ thuộc vào nhiều nơi khác… Từ đó mới có một giải pháp dung hòa: Friend-shoring, tức chuyển các hoạt động trong chuỗi cung ứng hàng hóa về các nước thân thiện, nhằm vừa tận dụng lợi ích của toàn cầu hóa, vừa hạn chế các rủi ro gián đoạn sản xuất vì đặt ở các nước không thân thiện.
Nói trắng ra, Friend-shoring đối với Mỹ là chủ trương xây dựng các dây chuyền cung ứng mới đặt bên ngoài Trung Quốc để tránh những thiệt hại do chính sách đối đầu trong thương mại giữa hai nước – từ thuế đến công nghệ. Tránh Trung Quốc cũng được kỳ vọng tránh các rủi ro không thể kiểm soát, như các lần nhiều nhà máy phải đóng cửa do chính sách zero Covid ở nước này.
Theo cách giải thích của một số nhà kinh tế chủ xướng khái niệm này, Friend-shoring sẽ dựa vào các nước đối tác kinh tế để xây dựng quan hệ sản xuất nhằm tận dụng các lợi ích chung về cả chính trị lẫn kinh tế. Chính quyền Tổng thống Joe Biden còn khái quát hóa nó lên trong một báo cáo dài 250 trang mang tên: “Xây dựng các chuỗi cung ứng bền vững, hồi sinh nền sản xuất Mỹ và nuôi dưỡng tăng trưởng theo chiều rộng”.
Báo cáo ghi nhận một số nguyên liệu thiết yếu là không có sẵn ở Mỹ, vì thế công cụ hóa giải khó khăn này có thể “bao gồm chuyển sản xuất sang các nước đồng minh và thân thiện (ally – and Friend-shoring) cùng với đầu tư vào sản xuất và gia công bền vững trong nước”. Việc khởi xướng Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ dương – Thái Bình dương (IPEF) vừa qua nằm trong chiến lược này.
Một số ví dụ có thể kể đến như chuyện Mỹ và Úc hợp tác để sản xuất các loại nguyên liệu mà trước đây phải phụ thuộc vào Trung Quốc như lithium hay cobalt – các nguyên liệu quan trọng trong sản xuất pin cho xe điện. Hay Mỹ và châu Âu đang dành ra hàng tỉ đô la để hỗ trợ các công ty như Intel xây dựng các nhà máy bán dẫn để khắc phục tình trạng thiếu chất bán dẫn khắp nơi.
Các tiếng nói phản đối Friend-shoring trước tiên cho rằng đây chỉ là một cách nói khéo để đẩy mạnh việc chuyển sản xuất sang các nước khác nhưng không gây phản ứng bất lợi trong dư luận như offshoring, hay nói cách khác đây là một phiên bản “toàn cầu hóa” rút gọn, nhẹ nhàng hơn. Một số ý kiến khác cho rằng Friend-shoring sẽ làm tăng lạm phát bởi làm tăng chi phí.
Tuy nhiên lập luận phản đối rộng rãi nhất dựa trên các lợi ích của toàn cầu hóa như tối ưu hóa dây chuyền sản xuất, phân công lao động dẫn đến hạ giá thành sản phẩm, để nói rằng các nỗ lực phân mảng bức tranh giao thương quốc tế sẽ phá vỡ những lợi ích này và có hại cho mức sống của người dân ở nhiều nước.
Những người đưa ra lập luận như thế cho rằng Friend-shoring sẽ dẫn đến các nước giàu đầu tư, mua bán với nhau, để lại các nước nghèo bên ngoài vòng thân hữu. Giao thương quốc tế không khéo sẽ có hình dáng của nền giao thương theo khối trong thời gian có chiến tranh lạnh. Một nghiên cứu của WTO ước tính nếu nền kinh tế toàn cầu biến thành hai khối Đông, Tây, nền kinh tế đó sẽ đánh mất ít nhất 5% sản lượng, tức tương đương ít nhất 4.000 tỉ đô la.
Cho dù có những tiếng nói phản đối như thế, chính sách Friend-shoring ắt sẽ được nhiều nước triển khai trong thời gian tới một khi họ thấm thía trước sự đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng hàng hóa thiết yếu, kể cả thuốc men, trang thiết bị y tế, từng nếm trải trong những năm đại dịch vừa qua và nhất là sau khi cuộc chiến ở Ukraine bùng nổ.
Dù muốn dù không, chuyển sản xuất sang các nước thân thiện là một trong những xu hướng trong tương lai gần mà các nước có nền kinh tế mở như Việt Nam không thể không quan tâm, theo dõi. Làm gì để vừa “thân thiện” với mọi nước như đường lối ngoại giao bấy lâu nay áp dụng vào kinh tế, lại vừa duy trì tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế đó là một bài toán cần suy nghĩ, bàn bạc thấu đáo.
Nguyễn Vũ
TBKTSG
|