Vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp chậm?
Từ năm 2016 đến tháng 6/2020, tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt hơn 218,000 tỷ đồng. Tuy nhiên, tiến độ thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chậm so với kế hoạch đề ra.
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình phát biểu tại hội nghị. Ảnh: VGP/Lê Sơn
|
Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2020 và triển khai nhiệm vụ các tháng cuối năm của Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Trưởng Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp (DN) nhấn mạnh về công tác tham mưu, chỉ đạo giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sắp xếp, cơ cấu lại DN Nhà nước, các công ty nông lâm nghiệp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về sản xuất, kinh doanh cho DN. Về cơ chế, chính sách cần đánh giá tiến độ, xây dựng Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2021-2025, những vướng mắc chủ yếu, cơ chế và chính sách trong công tác sắp xếp, cổ phần hóa.
“Phải chăng các vướng mắc mà các bộ, ngành, địa phương gặp phải là việc chậm sửa đổi một số nghị định, như Nghị định 126, Nghị định 167, Nghị định 32, nhất là việc xử lý nhà đất, phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa, xác định giá trị DN để cổ phần hóa, thoái vốn?”, Phó Thủ tướng đặt vấn đề.
Theo danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, giai đoạn 2017-2020 phải hoàn thành cổ phần hóa 127 DN, nhưng đến nay mới đạt được gần 28%.
Trước thực trạng này, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đặt ra hàng loạt câu hỏi cho các đại biểu tham dự hội nghị: Phải chăng vướng mắc ở các tập đoàn, tổng công ty có tình hình tài chính phức tạp, phạm vi hoạt động rộng, sở hữu nhiều đất đai tại nhiều địa phương… nên việc xử lý tài chính, sắp xếp lại nhà đất, phê duyệt phương án sử dụng đất của các DN thực hiện cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn? Quy trình, thủ tục mất nhiều thời gian do lịch sử pháp lý đất đai phức tạp?
Giải pháp nào để xử lý vấn đề này để khai thác một cách tốt nhất tài sản, đất đai của Nhà nước cho phát triển kinh tế? Liệu có thể giao một cơ quan phân loại đất đai thuộc sở hữu của các DN không còn sử dụng cho mục đích sản xuất, tập trung hết về một đầu mối quản lý để có giải pháp quản lý và sử dụng có hiệu quả hay không? Trách nhiệm của người đứng đầu?
Trách nhiệm của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại DN và SCIC khi thực hiện quyền, trách nhiệm cơ quan đại diện chủ sở hữu và nhà đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước? Những vướng mắc, khó khăn và giải pháp gì để đạt hiệu quả trong việc thực hiện vai trò chủ sở hữu Nhà nước tại DN? Các giải pháp thúc đẩy việc niêm yết trên thị trường chứng khoán của DN sau cổ phần hóa và chuyển giao phần vốn Nhà nước tại DN về SCIC? Tại sao việc niêm yết trên thị trường chứng khoán lại chậm?
“Năm 2020 là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch của giai đoạn 2016-2020. Chúng ta cần đẩy nhanh việc ban hành các cơ chế, chính sách cho giai đoạn tới, làm cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn cho giai đoạn 2021-2025”, Phó Thủ tướng nêu rõ.
Phó Thủ tướng đề nghị, các thành viên Ban Chỉ đạo, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty phát huy tinh thần trách nhiệm, tập trung thảo luận, đánh giá đúng thực tế, đề ra giải pháp khả thi để thực hiện thành công nhiệm vụ đề ra.
Báo cáo của Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN cho biết, tiến độ thoái vốn Nhà nước tại DN chậm so với kế hoạch đề ra. Theo danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1232/QĐ-TTg, thì giai đoạn 2017-2020 phải hoàn thành thoái vốn 348 DN. Tuy nhiên, mới thoái vốn Nhà nước tại 92 DN, đạt 26.4% kế hoạch.
Các bộ, ngành, địa phương phản ánh còn gặp khó khăn, vướng mắc trong triển khai Nghị định 126, Nghị định 167 và Nghị định 32 của Chính phủ.
Cụ thể, việc rà soát phương án sắp xếp, xử lý nhà đất, phê duyệt phương án sử dụng đất của DN thực hiện cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn, nhiều quy trình, thủ tục, thời gian kéo dài do pháp lý đất đai phức tạp. Một số nội dung chưa cụ thể, còn có cách hiểu khác nhau dẫn đến lúng túng, không thống nhất khi thực hiện, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Bên cạnh đó, chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục, nội dung, cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng đất mà DN cổ phần hóa phải lập theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về cổ phần hóa.
Đặc biệt, việc xác định lợi thế giá trị quyền sử dụng đất đối với đất thuê trả tiền hằng năm, định giá thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, giá trị văn hóa, lịch sử… quy định tại Nghị định 32 để xác định giá khởi điểm khi thoái vốn. Nghị định này đã có hướng dẫn nhưng chưa có nội dung cụ thể, cách hiểu còn khác nhau, dẫn đến lúng túng, không thống nhất khi thực hiện.
Nhật Quang
FILI
|