Nữ hoàng hủ tíu cà phê
Ở vùng ngã tư Bình Hòa có chuyện kể rằng hồi thập niên 1930, vài đàn ông trong làng thường rủ nhau ra mấy cái tiệm nước ở Bà Chiểu hay Đa Kao.
Một quán ăn ở Sài Gòn thập niên 1930
|
Họ ở đó, rề rà uống cà phê, ăn tô hủ tíu, cái bánh bao rồi kêu ấm trà ngồi đến trưa. Bà con thời đó thắc mắc vì sao mấy ông chịu khó đi xa ăn sáng như vậy. Mấy ông bảo: “Ra đó ăn điểm tâm, ủng hộ người Nam mình!”.
“Người Nam mình”, ở đây là người Việt. Câu chuyện đi ăn sáng kể trên của mấy ông diễn ra trong phong trào người Nam hô hào dùng hàng nội hóa hay dịch vụ của người mình, tẩy chay hàng hóa, tiệm quán của người Hoa trên đất Sài Gòn - Gia Định. Trong bối cảnh đó, một người Việt xuất hiện trên thương trường, hình thành một chuỗi nhà hàng mang tên Đức Thành Hưng, đứng vững trong một thời gian dài trên dưới hai thập niên từ khi thành lập.
Trong một lần dự đám giỗ ở hẻm 104 Nơ Trang Long, quận Bình Thạnh, TP.HCM, tôi gặp cô Ba Nguyễn Thoại Anh, năm nay đã 84 tuổi. Nghe nhắc về những cái quán mang tên Đức Thành Hưng, cô như reo mừng vì đã lâu lắm rồi không nghe ai nhắc đến nó. Đối với cô, nó gợi kỷ niệm từ hồi nhỏ cho đến thời thiếu nữ, lúc còn học Nữ tiểu học Gia Định và sau đó là Trường Gia Long.
Cô Ba kể: Tiệm Đức Thành Hưng ở Bà Chiểu do bà Ba Truyện, nhà ở khu vực cầu Băng Ky, quản lý. Đó là một tiệm bán hủ tíu cà phê và vài món khác. Nó có tiếng ai cũng biết. Tiệm nằm ở góc chợ Bà Chiểu, nay là khu vực bán trái cây. Hồi đó, cô bé Thoại Anh học giỏi nên hay được giấy khen. Mỗi lần như vậy, ông nội của cô là ông Nguyễn Văn Chỏi, giữ chức Bang biện làng Bình Hòa dùng xe đạp chở đi chơi ngày cuối tuần. Ông chở cháu đến xem chiếu bóng ở rạp ASAM hay rạp CASINO ở Đa Kao, xem xong thì thế nào cũng ghé tiệm Đức Thành Hưng. Ông Chỏi ăn hủ tíu, uống cà phê còn cô cháu gái ăn bánh pâté chaud, uống sữa. Cà phê lúc đó lược bằng vợt vải như cái vớ, dọn ra trong cái ly sành tráng men màu vàng nâu. Bài trí trong quán hoàn toàn khác với tiệm nước của người Hoa vốn cũ kỹ và tối. Đây là quán kiểu Tây, có quầy cho người bán, thu ngân, mua bánh. Nền quán lót gạch bông vuông nhỏ đỏ trắng xen lẫn. Bàn ghế trong quán là loại bàn vuông có trải khăn trắng, ghế gỗ bày bốn góc. Bồi bàn ăn bận lịch sự.
Tranh vẽ lại chân dung bà Lê Thị Ngọc đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn (tác giả Phạm Công Tâm)
|
Ông Ba, có lẽ là chủ quán, dáng người phương phi, hớt tóc cao và chẻ ngang, mặc quần tây áo sơ mi tiếp khách và lần nào cũng ra chào ông Chỏi.
Câu chuyện về cái tên Đức Thành Hưng được nhắc lại nhiều lần như một huyền thoại, cho đến khi tôi đọc được vài bài viết đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn năm 1933. Theo bài báo, bà Lê Thị Ngọc, một phụ nữ nghèo khó ít học đã làm nên kỳ tích hình thành chuỗi quán này để được gọi là “Nữ hoàng hủ tíu cà phê” trên tờ Phụ nữ Tân Văn, một tờ báo có uy tín trong ba kỳ, và trên nhiều tờ báo khác. Có tất cả chín tiệm do bà sáng lập ra, cùng mang tên chung là Đức Thành Hưng, chuyên bán nước trà, cà phê, hủ tíu và cơm Tây, rải rác từ Sài Gòn, Tân Định, Gia Định, chợ Bà Chiểu, chợ Đũi, Gò Vấp, Bình Hòa và Thủ Dầu Một. Hầu hết là những tiệm khang trang, mang phong cách tiệm ăn của Tây.
Phố hàng rong giữa trung tâm: Người bán mỏi tay, người Sài Gòn ăn ngon rẻ Trước năm 1919, nghề bán hủ tíu cà phê là độc quyền của người Hoa, nơi nào có tiệm hủ tíu cà phê thì đương nhiên là của họ, người Việt không chen vô được. Trong khi đó, người Việt lại thích ra quán ăn sáng bằng hủ tíu cà phê, trưa tráng miệng bằng nước trà, bánh ngọt.
Thường cái gì độc quyền dễ sinh ra kiêu ngạo và bắt chẹt, thế là các tiệm của người Hoa cùng lên giá loại thức uống mà người Việt đã trót ghiền. Ở chợ Cũ đường de la Somme (Hàm Nghi), tháng 6 năm 1919, một ly cà phê bỗng dưng vọt lên từ hai xu thành ba xu. Khu này đông công chức làm cho Tây, nhân viên hãng xưởng và phu phen. Họ uống cà phê mỗi ngày, nay bị tăng giá nên tức giận, hô hào tẩy chay các tiệm nước của người Hoa rồi cả các loại hàng hóa khác, đồng thời kêu gọi ủng hộ hàng hóa, tiệm quán của người Việt. Báo Lục Tỉnh Tân Văn và Thời Báo bèn vào cuộc ủng hộ chuyện đó. Từ đốm lửa nhỏ, thành phong trào, lan dần từ Nam ra Trung, Bắc.
Lúc đó, bà Lê Thị Ngọc đang góa chồng, nách có ba con nhỏ. Nhà rất nghèo, để nuôi con, bà lập ra một quán nhỏ bán đồ lặt vặt ở ga Đất Hộ (Đa Kao). Lưng vốn của bà chỉ có năm ba chục đồng.
Nhưng bà Ngọc là người biết tính toán. Biết đang có phong trào vận động dùng hàng nội, bà tận dụng ngay cơ hội. Bà cầm hết đồ tư trang ít ỏi của mình, về làng Bình Hòa tìm bà con vay mượn thêm, tổng cộng được tất cả bốn, năm trăm đồng. Thoạt đầu, bà mở tại Đa Kao tiệm lấy tên Đức Thành Hưng trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), mà theo báo Phụ nữ Tân Văn đây là tiệm hủ tíu cà phê đầu tiên của người Việt. Cái tên của tiệm nói lên ước nguyện của bà “Có đức mặc sức mà ăn” và sẽ hưng thịnh. Ban đầu, bốn mẹ con cùng nhau lo bán quán. Nhờ đồng bào ủng hộ, tiệm đắt khách dần. Bà tiếp tục mở thêm tiệm thứ hai, thứ ba... qua mỗi năm, lên tới chín tiệm cùng tên Đức Thành Hưng trong 15 năm sau đó, tính đến năm 1933.
Thật ra, lúc đó không chỉ có bà Lê Thị Ngọc biết tranh thủ làm ăn. Nhiều người cũng lập tiệm bán hủ tíu cà phê y như vậy. Tuy nhiên, các tiệm này không trụ được lâu. Tiệm Hòa Mỹ do vài người có máu mặt lập ra, đặt tại vị trí một tiệm cầm đồ trước đây cũng ở Đa Kao. Vốn của họ khoảng 2.000 đồng, gấp bốn lần tiệm bà Ngọc nhưng chỉ đứng được một năm rưỡi rồi hết vốn, đóng cửa. Tiệm Vĩnh Đa ở đường Amiral Courbert (Nguyễn An Ninh) buôn bán phát đạt được chục năm, rồi thất bại.
Có lần, bà Lê Thị Ngọc giao một tiệm trong chuỗi Đức Thành Hưng cho một người thân tín trông coi. Họ quản lý kém, mang nợ, nên bà lại ra vốn và tiếp tục duy trì. Các chi nhánh lập ra, bà quán xuyến như một tổng giám đốc điều hành, chi nhánh nào sắp đi xuống là bà lập tức tiếp sức, quyết giữ uy tín thương hiệu Đức Thành Hưng. Bà nói: “Sống chết giàu nghèo gì tôi cũng phải bảo bọc cho cái tên của tôi đã khai sinh ra!”.
Xuất thân là người nghèo, bà Lê Thị Ngọc có lòng trắc ẩn với những người làm việc cho bà và khi có điều kiện, bà giúp họ “ra riêng” mở tiệm, một hình thức nhượng quyền thương mại sơ khai. Trong số chín tiệm Đức Thành Hưng, bà và các con nắm ba tiệm ở trung tâm Sài Gòn, cầu Băng Ky và Đa Kao. Sáu tiệm còn lại, trong đó có tiệm của ông Ba ở chợ Bà Chiểu, đều của những người từng làm cho bà hoặc có quen biết, do bà giúp vốn lập tiệm. Cách thức này, người Hoa thường áp dụng để giúp đồng hương hay cộng sự thân thiết của họ, và bà đã thực hiện như họ. Điều kiện tiên quyết của bà là phải lấy tên Đức Thành Hưng dù đặt tiệm ở đâu. Các tiệm được bà hỗ trợ phía sau nên dần phát triển tốt. Phát triển nhất là chi nhánh Đức Thành Hưng ở Bà Chiểu với vốn của chủ chi nhánh lên tới 10.000 đồng năm 1933.
Khi bắt đầu kinh doanh tiệm hủ tíu cà phê, thấy đến Tết Trung thu, chỉ có bánh trung thu của người Hoa có mặt trên thị trường, bà quyết tâm sản xuất loại bánh này để bán trong chuỗi tiệm Đức Thành Hưng. Người Hoa nổi tiếng về việc giữ bí mật nghề nghiệp, chỉ truyền trong dòng họ và cho con trai. Đến giữa thập niên 1920, bà Ngọc gặp anh Võ Văn Thêm, một người từng làm trong xưởng bánh của người Hoa ở Phan Thiết. Bà mời anh về làm, bỏ vốn ra xây lò nướng, sắm chảo nướng, tốn tổng cộng 120 đồng. Bánh ra lò nhưng ban đầu chưa được biết tiếng, mỗi kỳ trung thu chỉ bán được từ 200 đến 300 kg. Dần dà, tiếng đồn bánh của người Nam làm ngon không thua bánh người Hoa lan rộng, khách mua đông dần và bảy năm sau, mỗi kỳ trung thu bán được khoảng 2.000 đến 3.000 kg bánh. Tuy vậy, báo chí còn cho rằng nếu quảng cáo tốt hơn thì số bánh bán ra còn cao hơn.
Người già ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) còn nhớ tiệm Đức Thành Hưng ở góc đường Lý Thường Kiệt, sát bên tiệm bánh bao Mai Viên. Cho đến năm 1937, dấu vết của chuỗi tiệm này còn trong câu chuyện kể về nghệ sĩ Út Trà Ôn, Năm Cần Thơ khi đến tiệm Đức Thành Hưng đường Lê Thánh Tôn gần chợ Bến Thành ca hát với nhau.
Những tiệm hủ tíu cà phê Đức Thành Hưng khi nào ngưng hoạt động? Cô Ba Thoại Anh không trả lời được câu hỏi này. Khi cô lớn lên, không còn nghe ai nhắc đến cái tên Đức Thành Hưng nữa. Có thể chuỗi tiệm này ngưng bán từ 1945, khi chiến tranh nổ ra ở thành phố này.
Phạm Công Luận
thanh Niên
|