Tập đoàn kinh tế gặp nhiều khó khăn vì... thừa vốn
Báo cáo Kinh tế vĩ mô năm 2014 được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố ngày 26-6 cho rằng: Việc phát triển một cách ồ ạt các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKT) có quy mô lớn và kinh doanh đa ngành đã triệt tiêu hầu hết các tác động tích cực tiềm tàng của việc gia nhập WTO đối với cải cách DNNN.
Mô hình tập đoàn kinh tế đã tăng nhanh trong thời gian gần đây.
|
Tăng nhanh mô hình tập đoàn kinh tế
Báo cáo mang tên “Cải cách thể chế kinh tế: Chìa khóa cho tái cơ cấu” nêu rằng: Trong quá trình gia nhập WTO, ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác, thường có một sự lo sợ chính đáng rằng các doanh nghiệp nội địa khó có thể cạnh tranh được với các tập đoàn đa quốc gia, và do vậy sẽ bị lép vế ngay trên sân nhà. Ở Việt Nam, nỗi lo lắng chủ yếu dành cho khối DNNN.
Báo cáo phân tích: Như vậy, Việt Nam đứng trước một tình thế khó xử. Đó là việc gia nhập WTO sẽ mở ra những cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh và toàn diện hơn, song đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất gay gắt, có nguy cơ làm xói mòn vai trò chủ lực của khu vực DNNN và do đó làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp cho tình trạng này, theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, là song song với quá trình gia nhập WTO, các DNNN, đặc biệt là các trụ cột của nó (bao gồm các tập đoàn và tổng công ty nhà nước) được giao trọng trách đóng vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa và chủ lực trong hội nhập quốc tế. Để thực hiện được các vai trò này, các DNNN nòng cốt phải được phát triển một cách nhanh chóng.
“Tất nhiên việc gia nhập WTO không phải là nguyên nhân duy nhất, càng không phải là nhân tố quyết định nhất cho việc đẩy mạnh mô hình TĐKT nhà nước, nhưng nó đã đóng vai trò như một chất xúc tác, một chất men kết dính quan trọng tạo điều kiện cho sự đồng thuận đủ mạnh giúp đẩy nhanh tiến độ mở rộng của các tập đoàn kinh tế nhà nước cả về phạm vi và quy mô” – báo cáo nhận định.
Kết quả là từ năm 2005 các TĐKT nhà nước liên tục ra đời. Đến thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO đã có 8 TĐKT được thành lập, và đến giữa năm 2011, tổng cộng có tới 13 TĐKT.
Tín dụng dư dả làm “hỏng” DNNN?
Việc chuyển sang kinh doanh đa ngành, trong đó bao gồm cả ngân hàng, bảo hiểm và công ty tài chính đã sản sinh ra nhiều hình thức mới của tín dụng chỉ định và sở hữu chéo giữa các DNNN. Điều đáng lưu ý là những hình thức này rất khó phát hiện, và ngay cả khi phát hiện được thì cũng rất khó chế tài theo các quy định của WTO.
Báo cáo dẫn chứng: Hãy hình dung một tổng công ty ban đầu chỉ có một ngành kinh doanh chính và một số ít các ngành kinh doanh bổ trợ và có liên quan. Khi còn là tổng công ty thì chỉ có ba nguồn tín dụng quan trọng nhất là hỗ trợ hay vay ưu đãi từ Nhà nước, tín dụng ngân hàng (bao gồm cả tín dụng chỉ định), hay tín dụng thương mại, trong đó hai nguồn tín dụng đầu tiên là quan trọng hơn cả. Khi gia nhập WTO, tín dụng trực tiếp từ Nhà nước và tín dụng chỉ định sẽ bị cấm, và do vậy trên nguyên lý không còn nữa.
"Sự thắt chặt tín dụng này rõ ràng là một cú sốc lớn đối với DNNN vốn sống dựa vào nguồn tín dụng dễ dãi" - báo cáo viết.
Nay tổng công ty này được nâng cấp thành TĐKT có đủ cả ngân hàng, công ty tài chính và công ty bảo hiểm. Việc được nâng cấp lên TĐKT với mô hình kinh doanh đa ngành này đã cứu nguy cho tình trạng suy kiệt tín dụng.
Với mô hình kinh doanh mới này, các TĐKT có thể huy động vốn từ nhiều nguồn- từ các công ty tài chính, từ nguồn tiền nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm, và quan trọng nhất, từ chính ngân hàng thương mại do TĐKT sở hữu, sau đó bơm tín dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
“Trong điều kiện kinh tế thuận lợi, với những nguồn vốn nội bộ dồi dào này, các TĐKT không còn cần đến hỗ trợ của Nhà nước hay tín dụng chỉ định nữa. Một cách trớ trêu, chính sự thừa vốn - chứ không phải thiếu vốn - mà không có năng lực tận dụng một cách hiệu quả đã khiến cho một số TĐKT gặp nhiều khó khăn” – báo cáo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh nghịch lí này.
Lương Bằng
Hải Quan
|