Thứ Ba, 27/05/2014 06:20

Chủ động giảm nguồn cung nguyên liệu từ TQ

Để có đủ lực nhằm bảo đảm tự chủ trong sản xuất hàng hóa, cần phải kêu gọi ngoại lực và mở nhiều “cửa ra, cửa vào” cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.

Nhiều năm qua, nhập khẩu vải, thép của Việt Nam (VN) luôn cao, trong đó nhập chính từ Trung Quốc (TQ). Trong trung hạn và dài hạn, vượt qua sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu TQ là một bài toán đặc biệt quan trọng.

Liên kết với nhà đầu tư nước ngoài

Nhận diện về thực trạng nhập khẩu ngành dệt may, ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi VN, cho biết ngành may VN nhập trên 80% vải, trong đó 50% phải nhập từ TQ. Một vị nguyên lãnh đạo của Tập đoàn Dệt may VN cho biết về chiến lược lâu dài, phải tính đến đầu tư sản xuất tại VN. Chính phủ cần tính đến phương án lập khu công nghiệp chuyên về dệt, nhuộm, đồng thời các doanh nghiệp (DN) cũng phải ý thức chuyện nâng cao năng lực và đổi mới công nghệ.

Tuy nhiên, để đầu tư một nhà máy kéo sợi hay dệt, nhuộm đòi hỏi vốn lớn, thiết bị và công nghệ hiện đại hơn… và chỉ có những tập đoàn lớn mới đủ sức thực hiện. Bằng chứng là mỗi năm VN cần 6 tỉ mét vải nhưng DN nội chỉ đáp ứng được hơn 1 tỉ mét. Vì vậy, liên kết với các đối tác nước ngoài là một hướng đi để nhanh chóng tạo ra được nguyên phụ liệu sản xuất tại chỗ cho ngành dệt may. Muốn thế, Nhà nước cần có chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài, kêu gọi những DN có sẵn công nghệ, rành rẽ về thời trang. Hiện nay đã có nhiều DN dệt may VN liên doanh với DN Nhật, EU sản xuất sản phẩm cao cấp, thành lập chuỗi giá trị dệt may bền vững.

Ngành dệt may cần liên kết để tạo nguyên phụ liệu tại chỗ. Ảnh: QUỲNH NHƯ

Liên kết nội bộ để đầu tư đúng mức

Tương tự ngành dệt may, theo ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép VN (VSA), thì ngành thép VN cũng chủ yếu nhập khẩu từ TQ. Bình quân mỗi năm trên 3 triệu tấn, trong đó phần lớn là thép cuộn cán nóng bởi hiện nay VN chưa có nhà máy sản xuất. “Cái khó nhất của ngành thép là cần đến nhà máy sản xuất từ quặng sắt, trong khi đó hiện nay VN mới chỉ đang xây dựng Nhà máy thép Fimosa (Hà Tĩnh). Đồng tình quan điểm trên, ông Nguyễn Tiến Nghi, nguyên Phó Chủ tịch VSA, tiết lộ: Nước ta không có công nghệ lò cao không thể sản xuất được. Nước ta lúc trước cũng nhập công nghệ lò cao nhưng nhập phải thiết bị cũ, công suất thấp, sản xuất ra giá thành cao không đủ cạnh tranh với thép nhập khẩu cuối cùng cũng “chết”.

Theo ông Nghi, giải pháp tốt nhất hiện nay vẫn là đầu tư đúng mức, có trọng điểm vào các dự án khai thác mỏ, các dự án sản xuất phôi từ quặng, tránh đầu tư dàn trải. Đặc biệt là chấm dứt đầu tư các dự án cán thép không đi liền với dây chuyền sản xuất phôi. Cần phát triển ngành khai khoáng, tạo tiền đề cho ngành công nghiệp luyện cán thép. Nếu DN không đủ lực thì hợp tác cùng nhau góp vốn, góp sức đầu tư, phải đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại thì mới chủ động được sản xuất, khai thác tốt thị trường. Về lâu dài, theo đại diện VSA, DN VN sẽ phải cố gắng tự sản xuất, đổi mới công nghệ, tăng năng lực cạnh tranh để xây dựng các nhà máy quy mô lớn.

Săn lùng nguồn cung mới

Một cán bộ Hiệp hội Dệt may VN cho rằng sở dĩ VN nhập siêu dệt may từ TQ là bởi DN trong nước khó đáp ứng nổi nguyên phụ liệu. Ông Lê Hồng Phoa, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Bình Dương, Tổng Giám đốc Công ty May mặc Bình Dương, cho biết tại Bình Dương, đa số DN dệt may là DN có vốn đầu tư nước ngoài và họ không tính chuyện xoay trở nguồn cung nguyên phụ liệu.

Còn các DN VN thì cần phải tính đến điều này. Ví dụ, Công ty May mặc Bình Dương trước đây nhập nguyên phụ liệu từ TQ đến 80%, công ty đã tìm cách chuyển hướng nhập từ nhiều nguồn khác như Nhật, Indonesia, Thái Lan, đến nay nguyên phụ liệu TQ chỉ khoảng 20% mà thôi.

Chia sẻ kinh nghiệm về đa dạng nguồn nguyên liệu, ông Phoa cho biết DN phải săn lùng và đàm phán mới tìm được nhà cung cấp hàng có chất lượng tương đương, giá tương đương như nguồn TQ.

Thứ hai, khi thay đổi nguyên phụ liệu thì phải thuyết phục được khách hàng mua hàng của mình để họ chấp nhận nguồn mới. Mình phải làm mẫu cho họ thử, họ kiểm tra, thương lượng với họ, thường mất 6-9 tháng, rồi thì họ sẽ đồng ý vì bản thân họ cũng muốn giảm rủi ro khi nguồn nguyên liệu tập trung ở một nguồn TQ.

Thứ ba, vì các nguồn cung mới thường ở xa hơn TQ nên thời gian chở hàng về VN lâu hơn, ví dụ hàng Indonesia mất 2-3 tuần mới về đến, trong khi hàng TQ chưa đến một tuần. Do đó, DN phải thay đổi cách thức, thời gian đặt hàng cho phù hợp tiến độ sản xuất và chỉ có thể áp dụng cho những sản phẩm ổn định về nguồn nguyên liệu, thời gian giao hàng mà thôi.

Quỳnh Như - Quang Huy - Trà Phương - Thành Văn

pháp luật tphcm

Các tin tức khác

>   Tập đoàn kinh tế Singapore tiếp tục đầu tư vào Việt Nam (26/05/2014)

>   “Việt Nam sẽ thành trung tâm xuất khẩu xe máy” (26/05/2014)

>   Hiệp định TPP - hướng đi để cân bằng kinh tế (26/05/2014)

>   Hàn Quốc, Hong Kong đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (26/05/2014)

>   XNK cao su 5 tháng giảm cả về lượng và giá trị (26/05/2014)

>   Doanh nghiệp làm truyền thông: Xóa mù cho thầy bói (26/05/2014)

>   Vốn FDI vào TPHCM tăng mạnh (26/05/2014)

>   Nông nghiệp Việt Nam: Sẽ rộng cửa để “hút” FDI (26/05/2014)

>   Xuất khẩu nông, lâm-thủy sản năm tháng đạt 12,12 tỷ USD (26/05/2014)

>   Học cách người Thái thu hút đầu tư nước ngoài (26/05/2014)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật