Thâu tóm ngân hàng Việt: Hiện tượng hay xu hướng?
Những thông tin liên tiếp về việc mua bán, sáp nhập ngân hàng gần đây có đủ tạo đà cho làn sóng M&A ngân hàng trong năm 2012?
Kết quả khả quan từ trường hợp đầu tiên
Cuối năm 2011, NHNN chính thức tuyên bố chấp thuận cho ba ngân hàng gồm: NHTMCP Sài Gòn, NHTMCP Đệ Nhất và NHTMCP Tín Nghĩa tự nguyện sáp nhập, dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Kể từ ngày NHTMCP SCB (mới) chính thức ra mắt và đi vào hoạt động (1/1/2012) đến nay đã là một quý, diễn biến thực tế cho thấy, thị trường đã chấp nhận phương án này.
Với bất kỳ sự chuyển đổi nào, người ta thường lo ngại về quyền lợi riêng của mình và đề cập đến vấn đề "được - mất". Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ lợi ích xã hội (xét trên phương diện lợi ích của toàn bộ nền kinh tế và bản thân ngân hàng), có thể thấy, việc hợp nhất 3 ngân hàng theo cách tự nguyện và có sự tham gia của một ngân hàng lớn (BIDV) như đã nêu là cách thức tối ưu, không gây nên các hiệu ứng quá thái đối với hệ thống ngân hàng, nền kinh tế và người gửi tiền. Thực tế, dễ nhận ra khá nhiều lợi ích từ vụ "tự sáp nhập" này.
Thứ nhất, đó là ổn định hóa thanh khoản của các ngân hàng. Qua quý 1/2012, hoạt động của ngân hàng sau sáp nhập cho thấy, cơ quan quản lý đã có giải pháp để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời ở cả 3 ngân hàng bằng cách tái cấp vốn cho một ngân hàng đầu mối. Ngân hàng hợp nhất tuy mới, nhưng đã duy trì được khả năng thanh toán của mình ở mọi thời điểm.
Thứ hai, biến được 3 ngân hàng nhỏ thành một ngân hàng có quy mô hợp lý. Theo đề án, vốn điều lệ của ngân hàng sau hợp nhất là 10.583,8 tỉ đồng, tổng tài sản là 153.626 tỉ đồng, có quy mô không quá bé ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, tăng cường năng lực quản trị. Với sự hỗ trợ của BIDV (một ngân hàng hàng đầu Việt Nam hiện nay) khả năng quản lý và giám sát đã được cải thiện. BIDV sẽ đại diện phần vốn của nhà nước tại ngân hàng mới, đảm bảo ngân hàng sau sáp nhập không bị phá sản, quyền lợi của người gửi tiền không bị ảnh hưởng.
Thứ tư, duy trì kỷ cương thị trường ngân hàng. Việc chỉ đích danh ngân hàng yếu kém hay phân loại ngân hàng theo nhóm (yếu hay lành mạnh), khuyến khích họ tự cơ cấu lại (sáp nhập) là một bước đột phá và dường như chưa có tiền lệ trong ngành ngân hàng ở Việt Nam.
Cứu mình, cứu người
Các ngân hàng yếu kém thời gian qua đã rất mong chờ các quyết định nới lỏng tiền tệ và các khoản cứu trợ (tái cấp vốn) từ NHNN dưới các hình thức như hỗ trợ thanh khoản, cho vay khẩn cấp và kể cả việc NHNN mua cổ phần của NHTM cổ phần (theo Luật NHNN sửa đổi) để tăng vốn hay cải thiện tình hình. Rõ ràng, nếu sử dụng quá nhiều "bài thuốc" bơm tiền để cứu các NHTM thì có thể tạo nên dư luận không tốt về việc khu vực, ngân hàng có thu nhập rất cao, lãi lớn như thời gian trước đây, nay lại được cứu trợ, hỗ trợ v.v… Ngoài ra, việc bơm tiền như vậy ngay lập tức gây ra áp lực lạm phát trong năm 2012 và những năm sau, phá vỡ những thành quả thắt chặt tiền tệ thời gian vừa qua và định hướng điều hành tiền tệ trong thời gian tới. Nguy hiểm hơn, việc bơm tiền cứu ngân hàng làm ăn thua lỗ, bất cẩn (đầu tư quá mức vào khu vực rủi ro quá cao) sẽ tạo nên một tiền lệ xấu và phá vỡ kỷ cương về kiểm soát ngân hàng thương mại.
Nếu Chính phủ phát hành trái phiếu để tạo nguồn, được hiểu là phương pháp chuyển chi phí cho các thế hệ sau, bây giờ cũng không thực sự tối ưu vì lãi suất trái phiếu chính phủ hiện đang ở mức khá cao (thời gian đáo hạn 5 năm có lãi suất trên 12%/năm). Nếu cố gắng huy động trong nước, cũng lại tạo áp lực lên thị trường tiền tệ và gây nên hiệu ứng tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ và hiệu ứng lấn át đầu tư - thu hẹp khả năng tiếp cận vốn của khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, giả sử nếu có việc phát hành tiền, tức khắc sẽ gây lạm phát và điều đó được hiểu là các thất thoát của khu vực ngân hàng được phân bổ cho toàn xã hội. Kinh nghiệm cho thấy, phương pháp này hiện nay dường như không được thực hiện vì nó ngay tập tức ảnh hưởng đến lợi ích của dân chúng và làm rối loạn hệ thống tiền tệ, ngân hàng.
Có thể thấy, với cách thức tự nguyện sáp nhập, các ngân hàng có thể tự hỗ trợ lẫn nhau, do đó sẽ giúp giảm bớt sức ép lên chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Ðủ điều kiện tạo nên xu thế
Theo Đề án 254 về Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015, Chính phủ chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng sáp nhập, hợp nhất, mua bán lại theo nguyên tắc tự nguyện, từ đó tăng quy mô và khả năng cạnh tranh. Như vậy, định hướng khung pháp lý đã và đang mở ra cho một khuynh hướng phát triển tích cực.
Cùng với đó, Quốc hội và các cơ quan chức năng đã tỏ rõ quyết tâm và đã có nghị quyết về cơ cấu lại thị trường tài chính, các doanh nghiệp, đầu tư công, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng dựa vào chất lượng, hiệu quả kinh tế. Điều đó có nghĩa là khu vực ngân hàng Việt Nam sẽ bước vào một vòng cải cách mới thực sự từ năm 2012. Thực tế, việc hợp nhất 3 ngân hàng vừa qua cho thấy, phương pháp luận về cơ cấu lại ngân hàng theo hình thức sáp nhập tự nguyện đang được coi là "bài thuốc" phù hợp đối với Việt Nam hiện nay. Vì nó xử lý được các khó khăn hiện tại, duy trì kỷ cương thị trường, không gây áp lực lên ngân sách nhà nước, không phá vỡ chính sách tiền tệ và không gây tổn hại đến các lợi ích xã hội tổng thể.
Do vậy, chắc chắn thời gian tới thị trường sẽ tiếp tục được chứng kiến các thương vụ ngân hàng sáp nhập tự nguyện như đã diễn ra. Gần đây, người đứng đầu ngành ngân hàng cũng khẳng định, sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc cơ cấu lại khu vực ngân hàng trong năm 2012 với những mục tiêu chính là tăng cường năng lực tài chính, khả năng tuân thủ và minh bạch của hệ thống. Ông còn dự kiến sẽ có từ 5 đến 8 ngân hàng được sáp nhập trong năm nay. Về nguyên lý, quá trình này cần được thực hiện song song với việc cải thiện niềm tin của người dân vào đồng bản tệ, cũng như tăng cường mức độ dự đoán được của chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, việc cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia nhiều hơn nữa vào tiến trình này để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu ngân hàng nên được xem xét. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu theo hướng đó, lợi ích mang lại không chỉ là tăng cường năng lực tài chính cho ngân hàng mà còn cải thiện được cả về quản trị và công nghệ. Nếu có sự tham gia của nước ngoài, viễn cảnh sáp nhập tự nguyện trong ngành ngân hàng Việt Nam năm 2012 có thể sẽ sôi động hơn và thực chất hơn.
Ths. Lê Văn Hinh
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
|