Rào cản giảm lãi suất: Không nằm ở nguyên nhân vi mô
Tiếp theo bài viết “Lãi suất thực âm” bàn về mục tiêu giảm lãi suất thông qua gói giải pháp của Ngân hàng Nhà nước đăng, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn PGS TS Trương Quang Thông - Giảng viên Trường ĐH Kinh tế TP HCM - một trong những chuyên gia tư vấn về cổ phần hóa cho nhiều NH thương mại VN để làm rõ hơn vấn đề này.
* Vai trò lãi suất thực âm
- Trong những ngày gần đây, DN, người dân và Ngân hàng đều đang rất kỳ vọng vào gói giải pháp của NHNN có hiệu dụng với mục tiêu giảm lãi suất tín dụng cho vay xuống còn 17-19%, ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, một số NH cũng cho rằng, rất khó để giảm lãi suất khi lãi suất huy động 14% vẫn chưa thực dương...
Tôi đồng ý với nhận định của các ngân hàng cho rằng, khó có thể giảm nhanh lãi suất trong điều kiện hiện nay. Chi phí huy động ngắn hạn trên thực tế đã cao hơn con số 14% khá nhiều, và các ngân hàng phải đối phó với rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn trong trường hợp lãi suất cho vay giảm xuống mức còn 17-19%/năm. Bản thân tôi cho rằng, mức lãi suất cho vay 17-19%/năm chỉ có thể đến với một số lượng rất nhỏ những người có nhu cầu mà thôi...
- Vậy theo ông, đâu là những rào cản đối với mục tiêu giảm lãi suất? Việc gỡ bỏ quy định về đảm bảo an toàn vốn của các NHTM theo Thông tư 19 liệu có tác động tích cực đối với mục tiêu giảm lãi suất trong ngắn hạn?
Có quan điểm cho rằng, các ngân hàng nhỏ là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc gia tăng lãi suất trong thời gian vừa qua. Tôi cho rằng, nói như thế thì không công bằng. Tại sao người ta lại bỏ qua vai trò “dẫn đạo”, “đầu tàu” của các ngân hàng lớn? Thực tế là chính các ngân hàng lớn vẫn cho vay các ngân hàng trên thị trường 2. Những rào cản cơ bản đối với mục tiêu giảm lãi suất chủ yếu nằm ở những khó khăn, những yếu điểm nội tại của nền kinh tế vĩ mô, chứ không hẳn ở một số nguyên nhân mang tính chất vi mô như người ta vẫn cố gán cho nó. Còn về việc gỡ bỏ một số qui định về an toàn vốn, tôi nghĩ rằng, NHNN có cơ sở cho quyết định mới đây của họ, ít nhiều sẽ cải thiện nguồn vốn khả dụng có thể cho vay. Còn việc giảm lãi suất và giảm đến đâu lại tùy thuộc vào nhiều biến số khác.
- Một số NH cho rằng không phải cứ đồng thuận giảm là giảm được ngay, bởi chính sách bao giờ cũng có độ trễ và có thể phải hết năm 2011 thì lãi suất mới thực giảm như kỳ vọng. Theo TS thì lộ trình giảm lãi suất sẽ diễn biến ra sao?
Điều đó hoàn toàn hiển nhiên. Lãi suất khó mà giảm ngay được. Vì lãi suất tăng giảm phụ thuộc vào nhiều biến số, chứ không phải có sẵn vài ba chục ngàn tỉ, có sự cam kết của các ngân hàng, có chủ trương của những người làm chính sách là làm được. Phần lớn những kịch bản mà chúng ta đang dự kiến làm trong những ngày gần đây thực ra đã diễn ra, bằng cách này hay cách khác. Tuy nhiên, dầu sao thì đó cũng là những tín hiệu ban đầu đáng mừng, trong khi chờ những quyết sách, công cụ mới.
- Ở góc độ quản trị ngân hàng, mục tiêu giảm lãi suất trong bối cảnh lạm phát cao (chi phí cao, trích lập dự phòng rủi ro cao...), có ảnh hưởng đến các NHTM? Theo TS, các NHTM có lựa chọn nào để điều hòa giữa mục tiêu giảm lãi suất 17-19%, tăng trưởng tín dụng 20%, đạt kế hoạch lợi nhuận và vẫn đảm bảo thanh khoản, an toàn vốn?
Muốn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao 20% thì ngân hàng phải phát vay nhiều hơn trước. Nếu chấp nhận rằng nguồn vốn của ngân hàng nay đã thanh khoản nhiều hơn trước, thì các ngân hàng vẫn phải đối phó đến rủi ro lãi suất, đặc biệt là rủi ro tái đầu tư (Re-Investment Risk) trong trường hợp giảm lãi suất, đặc biệt là trong kỳ vọng giảm nhanh mức lãi suất cho vay. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận.
- Trong trường hợp mục tiêu giảm lãi suất chưa thể rút dần xuống như kỳ vọng, các DN nên có phương án chuẩn bị thế nào để tránh bị động trong những tháng nhu cầu tín dụng tăng cao về cuối năm?
Qua phát biểu của các ngân hàng trong những ngày gần đây, chúng ta có thể cảm nhận rằng các đối tượng ban đầu có thể hưởng dụng việc giảm lãi suất là có giới hạn, được “sàng lọc” bởi các ngân hàng. Do các đặc điểm tài chính nội tại, các DNNVV có vẻ khó tiếp cận những luồng vốn giá rẻ đầu tiên này. Tôi nghĩ rằng, chính các DNNVV cũng đã ý thức được qua kinh nghiệm giao dịch ngân hàng của họ rằng nếu như vay được, ngay cả khi nền kinh tế “an bình” nhất, thì chủ yếu họ chỉ tiếp cận được những khoản vay ngắn hạn, với mức độ có giới hạn. Những khoản vay đầu tư dài hạn thì gần như các DNNVV khó có khả năng tiếp cận, đặc biệt trong những năm khó khăn vừa qua. Cho nên, hơn ai hết, các DNNVV càng phải tự chủ hơn trong việc hoạch định các nhu cầu nguồn vốn ngắn hạn trong sản xuất kinh doanh của họ. Nhiều cuộc điều tra khảo sát các DNNVV cho thấy, họ không hẳn đã dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng...
- Xin cảm ơn ông về những trao đổi thẳng thắn này!
Ông Phạm Thiện Long - Phó TGĐ HDBank:
Không áp dụng cho vay đại trà
Với sự quyết tâm của NHNN, sự đồng thuận của toàn hệ thống NHTM, tôi tin lần này mục tiêu này có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất cho vay sẽ không áp dụng đại trà cho tất các thành phần trong nền kinh tế mà chủ yếu tập trung vào các đối tượng vay sản xuất kinh doanh, đối tượng vay phục vụ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, đối tượng vay được khuyến khích của ngân hàng.
Việc giảm lãi suất cho vay phụ thuộc rất lớn vào 2 yếu tố:
Thứ nhất là giá huy động đầu vào của ngân hàng. Nếu tốc độ tăng lạm phát tiếp tục được kìm hãm như tháng 8 thì lạm phát kỳ vọng của người gửi tiền sẽ giảm. Đây là cơ sở để lãi suất huy động giảm, từ đó, giá bình quân đầu vào cũng sẽ giảm. Nếu lãi suất đầu vào không giảm thì không thể giảm được lãi suất cho vay.
Thứ hai là mức độ rủi ro của người đi vay. Việc áp dụng lãi suất cao hay thấp còn phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hiệu quả, rủi ro của các dự án vay vốn.
Trước khi có chủ trương giảm lãi suất, HDBank đã có các trương trình tín dụng mà lãi suất cho vay ưu đãi, thấp hơn thông thường như chương trình cho vay ưu đãi DN hoạt động trong ngành công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp, nông thôn, DN xuất khẩu; chương trình JIBIC, JICA dành cho DNNVV. Ngay khi có chủ trương giảm lãi suất, HDBank đã ban hành ngay biểu lãi suất cho vay mới, với lãi suất cho vay giảm và thấp hơn biểu lãi suất cũ. Để hỗ trợ giảm lãi suất hơn nữa, HDBank đang đưa ra chương trình ưu đãi trị giá trên 2.000 tỷ đồng với lãi suất giảm từ 1-3% so với biểu lãi suất cho vay theo quy định, đối với các DN xuất khẩu và sản xuất, cụ thể lãi suất hiện nay khoảng 17 – 20%”.
TS Đinh Thế Hiển - Viện trưởng Viện nghiên cứu tin học và kinh tế ứng dụng:
Lãi suất cho vay 18% là khả thi
Tôi nhận định những tháng cuối năm, các NH sẽ được phép cho vay thêm khoảng 238 ngàn tỉ đồng, bình quân giải ngân khoảng 47,6 ngàn tỉ đồng/tháng, gấp đôi tiến độ giải ngân 7 tháng đầu năm 2011. Tổng phương tiện thanh toán còn lại cho 5 tháng cuối năm lên tới gần 300 ngàn tỷ đồng. Lãi suất vay sẽ giảm theo chủ trương của NHNN và việc giảm lãi suất này còn tùy thuộc vào nhều yếu tố cung tiền của ngân hàng.
CPI hiện ở mức 0,9%, nếu giữ được mức này, từ nay đến năm sau chỉ vào khoảng 11,97%. Rõ ràng đây là cơ sở để huy động vốn với lãi suất khoảng 14% rất tốt cho người gửi tiền. Với lãi suất thực dương 14%, cộng với việc ngân hàng dồi dào nguồn tiền và cộng thêm 4% nữa, tôi cho rằng cho vay 18% là hoàn toàn có khả thi vào cuối năm. Tuy nhiên, để hiệu quả, dòng tiền cần hướng về hai luồng: Thứ nhất là luồng nông nghiệp, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng... Thứ hai là luồng hỗ trợ cho vay tiêu dùng để hỗ trợ người dân. Nếu hai luồng này ổn định thì sẽ có sự tương ứng giữa tiền và hàng, tạo ra sự kiềm chế CPI, tạo công ăn việc làm và tạo sự khởi sắc cho nền kinh tế nói chung.
Tôi cho rằng, từ nay tới cuối năm nếu mức lãi suất 18% thì nền kinh tế và các DN đã có một nguồn vốn rất tốt. Việc cho vay ngoài việc sự cố gắng của ngân hàng còn phụ thuộc vào năng lực sử dụng đồng tiền của DN, nếu không thì có nguy cơ lượng tiền dồn vào ngân hàng và biến tướng vào các dự án bất động sản sẽ rất nguy hiểm cho nền kinh tế và không đạt đựoc mục tiêu tung tiền ra để đảm bảo phát triển sản xuất.
Mỹ Ý - Tuấn Anh ghi |
Lê Mỹ thực hiện
diễn đàn doanh nghiệp
|