Bài 2: Quy trình xét thầu gói thầu EPC
Để rộng đường dư luận đối với vấn đề lựa chọn nhà thầu EPC, bài viết này đề cập sâu những điểm cần “soi” khi nghiên cứu hiện tượng “bẫy thầu giá rẻ”.
Bài 1:Tổng quan về EPC
Trước hết, về mặt tổng quát, theo thông lệ chung, sau khi có dự án được phê duyệt, bước tiếp theo là triển khai công tác đấu thầu bao gồm các bước: lập kế hoạch đấu thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu theo tiến độ, phương thức và hình thức đã được phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu; ký kết hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn; nhà thầu tiến hành thực hiện hợp đồng với sự giám sát của chủ đầu tư. Cuối cùng là khâu nghiệm thu, bàn giao và đưa sản phẩm vào sử dụng.
Ở Việt Nam, quy trình tổng quát cũng tương tự, nhưng đã được cụ thể hoá hơn ở quy trình thực hiện đấu thầu. Cụ thể, sau khi kế hoạch đấu thầu được người có thẩm quyền phê duyệt, trình tự thực hiện đấu thầu đối với một gói thầu nói chung (bao gồm cả đấu thầu EPC) gồm 7 bước: (1) chuẩn bị đấu thầu; (2) tổ chức đấu thầu; (3) đánh giá hồ sơ dự thầu; (4) thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu; (5) thông báo kết quả đấu thầu; (6) hoàn thiện hợp đồng; (7) ký kết hợp đồng (khoản 4 - Điều 4 và mục 3 - Chương III của Luật Đấu thầu).
Để có bức tranh rõ hơn về quy trình đấu thầu EPC, xin đề cập những nội dung căn bản của 2 bước thuộc quy trình. Đó là bước 1 và bước 3.
Chuẩn bị đấu thầu
Tại bước này, theo quy định của pháp luật về đấu thầu của Việt Nam, chủ đầu tư có trách nhiệm lập Hồ sơ mời thầu, sơ tuyển nhà thầu (nếu cần) và mời thầu.
Đối với các gói thầu EPC thường có tính chất kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi nhà thầu phải có năng lực tốt, kinh nghiệm sâu rộng, thì mới bảo đảm quá trình thực hiện thành công gói thầu, nên thường được tiến hành sơ tuyển nhà thầu. Việc lập hồ sơ mời sơ tuyển, bao gồm các mức yêu cầu về năng lực (kỹ thuật, tài chính), kinh nghiệm (thực hiện các hợp đồng tương tự, số năm hoạt động trong lĩnh vực đang mời thầu…) là hoàn toàn thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư.
Do vậy, đối với các trường hợp một số bài báo nêu về sự thiếu năng lực, kinh nghiệm của các nhà thầu EPC, trong đó có một số nhà thầu Trung Quốc dẫn tới sự chậm trễ, kéo dài quá trình thực hiện hợp đồng, thì trách nhiệm trước hết thuộc về các chủ đầu tư, vì Luật Đấu thầu đã phân cấp trách nhiệm rõ ràng.
Bên cạnh công tác sơ tuyển (nếu có), một việc hết sức quan trọng của bước Chuẩn bị đấu thầu là lập hồ sơ mời thầu. Do việc lập hồ sơ mời thầu, đặc biệt là đối với các gói thầu EPC, đòi hỏi sự am hiểu thực sự, chuyên môn sâu cả về quy định đấu thầu và lĩnh vực chuyên ngành của gói thầu, nên theo quy định, nếu chủ đầu tư đủ năng lực, thì tự lập hồ sơ mời thầu; nếu không đủ năng lực có thể thuê tư vấn lập hồ sơ mời thầu. Có thể nói rằng, hồ sơ mời thầu là “linh hồn” của một cuộc đấu thầu, trong đó tiêu chuẩn đánh giá thuộc hồ sơ mời thầu có vai trò hết sức quan trọng. Việc thành hay bại, nhanh hay chậm, tốt hay không tốt của một cuộc thầu phụ thuộc vào tính khoa học, rõ ràng và đầy đủ của tiêu chuẩn đánh giá. Theo quy định tại Điều 29, Luật Đấu thầu, thì phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu phải được thể hiện thông qua tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu.
Tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu bao gồm tiêu chuẩn về năng lực, kinh nghiệm (trường hợp không sơ tuyển); tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật và các nội dung để xác định giá đánh giá trên cùng một mặt bằng kỹ thuật, tài chính, thương mại để so sánh xếp hạng các hồ sơ dự thầu. Đối với gói thầu EPC, sử dụng phương pháp chấm điểm, hoặc đánh giá “đạt/không đạt” để đánh giá về mặt kỹ thuật. Khi xây dựng tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật theo thang điểm, phải xác định mức điểm tối thiểu không thấp hơn 70% tổng số điểm, đối với trường hợp gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao, mức điểm yêu cầu tối thiểu không được quy định thấp hơn 80%.
Các gói thầu EPC thường có yêu cầu kỹ thuật cao, nên tiêu chuẩn đánh giá theo thang điểm phải được quy định không thấp hơn 80% tổng số điểm (có nghĩa là có thể quy định 85%, 90%, 95%).
Tuy nhiên, không dừng lại như vậy, nhiều gói thầu EPC còn được đánh giá các nội dung khác như: vận hành thử, chạy thử nghiệm, hoàn thành, bàn giao, bảo hành, bảo trì dài hạn… Việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá đối với từng nội dung công việc cụ thể cũng phải được xây dựng theo nguyên tắc nêu trên. Bên cạnh đó, trong hồ sơ mời thầu bao giờ cũng có một nội dung khác rất quan trọng là Dự thảo Hợp đồng (bao gồm điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng). Sau khi có kết quả đấu thầu, đây là nội dung sẽ được chủ đầu tư (đại diện bên mua) và nhà thầu (bên bán) thương thảo, hoàn thiện để đi đến thống nhất, ký kết hợp đồng và từ đó ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên.
Đánh giá hồ sơ dự thầu
Tại bước này, Tổ chuyên gia (được thành lập theo quyết định của chủ đầu tư, hoặc do tư vấn đấu thầu được chủ đầu tư thuê) tiến hành đánh giá các hồ sơ dự thầu theo trình tự như sau:
Đánh giá sơ bộ (kiểm tra tính hợp lệ, sự đầy đủ của hồ sơ dự thầu và loại bỏ các hồ sơ dự thầu vi phạm các điều kiện tiên quyết nêu trong hồ sơ mời thầu).
Đánh giá về năng lực, kinh nghiệm (trong trường hợp gói thầu không thực hiện sơ tuyển). Việc sơ tuyển hay việc đánh giá về năng lực, kinh nghiệm tại bước này với mục đích chính là xác định được nhà thầu có đầy đủ năng lực (kỹ thuật, công nghệ, máy móc thiết bị, cơ sở vật chất nhà xưởng, nhân sự và tài chính…) để bảo đảm có khả năng thực hiện được gói thầu (khả năng làm được việc) và kinh nghiệm (đã từng làm thành công một việc có tính chất, quy mô tương tự) để bảo đảm tăng tính khả thi cho việc thực hiện gói thầu đang được mời thầu. Các nhà thầu được đánh giá là đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm mới được xem xét đánh giá ở bước tiếp theo là về mặt kỹ thuật.
Đánh giá về mặt kỹ thuật. Căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật, các yêu cầu về kỹ thuật và các nội dung khác trong hồ sơ mời thầu, Tổ chuyên gia có trách nhiệm đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ thuật đối với từng nội dung của gói thầu EPC gồm các phần E, P và C, hoặc các phần khác như đề cập ở trên. Theo đó, từng nội dung phải được đánh giá đạt, hoặc vượt mức yêu cầu tối thiểu và điểm trung bình của các phần phải đạt hoặc vượt mức tối thiểu chung, thì mới được coi là đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật.
Đánh giá về tài chính - thương mại và xác định giá đánh giá. Các nhà thầu vượt qua bước đánh giá về mặt kỹ thuật thì mới được chuyển sang bước đánh giá về tài chính - thương mại và xác định giá đánh giá (trong đó, giá dự thầu của nhà thầu là một trong nhiều nội dung được đánh giá tại bước này).
Quy trình đánh giá như trên là tương đối cụ thể theo thông lệ chung và từng bước công việc được pháp luật về đấu thầu của Việt Nam quy định rõ, song một số người lại nhầm lẫn, nên dẫn tới quy cho “sơ tuyển” và đánh giá về mặt “kỹ thuật” đều là một. Điều này thật đáng tiếc, khi một vấn đề cụ thể, chuyên môn sâu đòi hỏi những người bàn về nó phải có am hiểu cần thiết, thì thực tế nhiều trường hợp lại không như mong muốn, nhưng vẫn được gọi là “chuyên gia về đấu thầu”.
Trong việc xem xét nội dung bài thi trong đấu thầu, bao giờ cũng phải tìm được nhà thầu có khả năng làm được việc và đã từng làm một việc tương tự rồi mới được xem xét đến mặt kỹ thuật. Khi mặt kỹ thuật đã được đánh giá là đáp ứng yêu cầu, nghĩa là hàng hoá, công trình, dịch vụ đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, thì mới được chuyển sang xem xét về mặt tài chính - thương mại và xác định giá đánh giá. Điều này khẳng định rằng, quy định về đấu thầu của Việt Nam chưa bao giờ đưa tiêu chí “giá rẻ” để lựa chọn nhà thầu và giá cả chỉ được xem xét khi chất lượng đã đáp ứng yêu cầu.
Cuối cùng, khi xem xét để đề nghị một nhà thầu trúng thầu, Luật Đấu thầu quy định phải căn cứ vào các tiêu chí như: có hồ sơ dự thầu hợp lệ, năng lực, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu; kỹ thuật đáp ứng yêu cầu; có giá đánh giá thấp nhất; giá đề nghị trúng thầu (là giá dự thầu đã được Tổ chuyên gia sửa lỗi và hiệu chỉnh các sai lệch để đưa về cùng một mặt bằng phạm vi công việc phải thực hiện) không vượt giá gói thầu, hoặc dự toán được duyệt.
Nguyễn Đăng Trương
Đầu tư
|