Cần giảm thuế thu nhập DN cho kinh doanh chứng khoán
Không phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như chưa tính đến yếu tố đặc thù của lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, là hai hạn chế lớn trong chính sách thuế thu nhập DN áp dụng đối với các tổ chức trong nước kinh doanh chứng khoán. Những “nút thắt” này, theo ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), nếu sớm tháo gỡ sẽ tạo động lực cho sự phát triển của TTCK.
Ông có thể phân tích cụ thể về những bất hợp lý trong chính sách thuế thu nhập DN áp dụng đối với các tổ chức trong nước kinh doanh chứng khoán?
NĐT tổ chức nước ngoài, NĐT cá nhân cả trong và ngoài nước đang áp dụng hình thức thuế khoán với mức 0,1%/giá trị chuyển nhượng chứng khoán hoặc 20% lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Đây là hình thức phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng được việc thu thuế đơn giản đối với những tổ chức nước ngoài không cần có mặt ở Việt Nam. Trong khi đó, NĐT là pháp nhân trong nước phải chịu mức thuế 25%/lợi nhuận (theo Luật thuế Thu nhập DN). Đây là mức thuế quá cao nếu so với NĐT tổ chức nước ngoài, NĐT cá nhân và cũng rất cao so với thông lệ quốc tế. Khi phương pháp tính thuế không đồng nhất, đã tạo sân chơi không bình đẳng trong việc thực thi nghĩa vụ nộp thuế.
Trong tháng 2 tới, VAFI có kế hoạch cùng với Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán, Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) và Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội đồng tổ chức hội thảo về thuế thu nhập DN cho hoạt động đầu tư chứng khoán áp dụng đối với tổ chức đầu tư trong nước. Tại diễn đàn này, các chuyên gia sẽ làm rõ tính đặc thù của chính sách thuế thu nhập DN đối với NĐT tổ chức kinh doanh chứng khoán trong nước; kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này. Sau đó, hai hiệp hội dự kiến sẽ có kiến nghị về việc sửa đổi chính sách thuế thu nhập DN cho hoạt động đầu tư chứng khoán lên các cơ quan quản lý, để xem xét điều chỉnh. | Cái lý mà cơ quan quản lý đưa ra thì ngược lại, bởi áp dụng mức thuế 25%/lợi nhuận đối với NĐT tổ chức trong nước là để đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các DN. Vậy cơ sở nào để ông cho rằng, cần có chính sách thuế đặc thù cho NĐT là tổ chức trong nước?
Tư tưởng bình đẳng về nghĩa vụ thuế thu nhập DN đối với các DN kinh doanh trong các ngành nghề khác nhau là phù hợp, nhưng lại bất hợp lý nếu đồng thời áp dụng đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán. Các nước trên thế giới đều có cơ chế thuế thu nhập DN đặc thù áp dụng cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đầu tư chứng khoán là hoạt động rất đặc thù và đầy rủi ro so với các ngành sản xuất - kinh doanh khác. Đối tượng tham gia thị trường đa dạng, nhưng cần áp dụng một chính sách thuế thống nhất. Kiến nghị của VAFI về việc giảm thuế thu nhập DN trong kinh doanh chứng khoán cho các tổ chức đầu tư trong nước không phải là việc “xin xỏ” chính sách ưu đãi thuế cho họ, mà chỉ đơn thuần là cần xây dựng một chính sách thuế thống nhất, có tính đến yếu tố đặc thù của kinh doanh chứng khoán, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế.
Các DN kinh doanh chứng khoán tuy phải đối mặt với rủi ro nhiều, nhưng ở một khía cạnh nào đó cũng đồng nghĩa với việc có được lợi nhuận cao, nên việc giảm thuế cho họ liệu có thuyết phục?
Đừng quên kinh doanh chứng khoán luôn đối mặt với nhiều rủi ro, mà trong không ít trường hợp rủi ro đó hoàn toàn do khách quan mang lại. Đơn cử như ngay cả khi CTCK làm ăn có lãi, nhưng chỉ cần TTCK suy giảm là họ phải trích lập dự phòng và nhiều trường hợp việc này đã biến CTCK từ đang làm ăn có lãi thành lỗ, thậm chí lỗ nặng. Trên thực tế, trong điều kiện kinh tế bình thường, các DN không thuộc lĩnh vực kinh doanh chứng khoán thường chỉ phải tăng chi phí kinh doanh không đáng kể trong năm, chỉ khi khủng hoảng kinh tế xảy ra (rất hãn hữu), họ mới chịu nhiều tác động tiêu cực. Bởi vậy, việc xây dựng cơ chế thuế thu nhập DN đặc thù cho các NĐT tổ chức trong nước kinh doanh chứng khoán là cần thiết. Nếu áp dụng chính sách này sẽ tạo động lực đáng kể cho sự phát triển của TTCK, qua đó kích thích gia tăng nguồn thu thuế. Trong điều kiện hiện nay, nên áp dụng phương thức thuế khoán cho mọi đối tượng đầu tư cổ phiếu, còn về mức thuế suất sẽ được điều chỉnh tăng theo sự phát triển ổn định của TTCK trong từng thời kỳ.
Hữu Hòe thực hiện.
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
|