Sợ rủi ro nhưng liều lĩnh hơn
Trước thời điểm Lý thuyết triển vọng ra đời, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đều cho rằng con người “lý trí” trong các hành vi liên quan đến kinh tế. Nghĩa là khi phải chọn, họ luôn chọn phương án nào tối đa hóa lợi ích.
Lợi ích theo ngôn ngữ kinh tế được tính là phép nhân giữa điều mong muốn (có thể là tiền) và xác suất điều đó xảy ra. Kahneman và Tversky, hai nhà tâm lý học nổi tiếng, không tin con người lại máy móc như vậy.
Ngược lại, có rất nhiều tình huống cảm xúc và tâm lý có ảnh hưởng lớn và làm cho con người hành xử không hợp lý. Hai ông, bằng rất nhiều thí nghiệm, đã chứng minh rằng trong những tình huống phải chọn lựa và sự chọn lựa có dính đến các yếu tố rủi ro thì hành vi của con người bị tác động bởi những thành kiến tâm lý. Hệ quả là phương án mà họ chọn nhiều khi không phải là phương án tối ưu.
Có khuynh hướng sợ rủi ro, nhưng liều lĩnh hơn nếu đối mặt với mất mát
Phát hiện quan trọng đầu tiên của Lý thuyết triển vọng là trước viễn cảnh được một lợi ích nào đó, con người có khuynh hướng sợ rủi ro (tạm dịch từ thuật ngữ risk-averse), nhưng sẽ có khuynh hướng liều lĩnh (tạm dịch từ thuật ngữ risk-seeking) nếu phải đối mặt với mất mát.
Để dễ hiểu, thử tưởng tượng bạn có hai sự lựa chọn, một là chắc chắn sẽ lời 1 triệu đồng, hai là ném một đồng xu, nếu sấp thì lời 2,2 triệu, nếu ngửa thì không được đồng nào. Bạn sẽ chọn lựa phương án nào? Kahneman và Tversky đã phát hiện ra rằng phần đông số người được hỏi lựa chọn phương án một.
Kết quả này khá bất ngờ. Nếu chiếu theo kinh tế học truyền thống thì người chơi sẽ phải “lý trí” mà chọn phương án hai vì lợi ích của phương án hai sau khi tính toán xác suất là cao hơn phương án một (1,1 triệu so với 1 triệu). Việc người chơi chọn phương án “ăn chắc mặc bền” thể hiện khuynh hướng căn bản của con người: sợ rủi ro.
Tuy nhiên không phải hoàn cảnh nào con người cũng luôn sợ rủi ro. Kahneman và Tversky thực hiện một khảo sát khác về hành vi của con người khi phải đối mặt với sự mất mát. Lựa chọn một chắc chắn 100% mất 1 triệu đồng, lựa chọn hai lại ném đồng xu, sấp thì mất 2 triệu, ngửa thì không mất đồng nào. Kết quả cho thấy đa số người được hỏi chọn phương án hai.
Xét về giá trị xác suất thì 50% khả năng mất 2 triệu cũng tương đương việc chắc chắn mất 1 triệu. Tuy nhiên, xét về giá trị tuyệt đối thì phương án hai rủi ro hơn vì nếu xảy ra, tổng số tiền mất gấp đôi phương án một. Kahneman và Tversky gọi cách ứng xử trên là khuynh hướng liều lĩnh hơn nhằm tránh đối mặt với mất mát.
Sợ mất mát là ám ảnh lớn của con người. Đây cũng là chủ đề thứ hai của Lý thuyết triển vọng. Bằng nhiều thí nghiệm, Kahneman và Tversky đã chứng minh rằng việc thua lỗ sẽ gây hậu quả tâm lý nặng nề hơn niềm vui mang lại do thành công dù là thua hoặc được cùng một món tiền. Một nhà đầu tư mua cổ phiếu, bán đi, có lời 10 triệu chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn một nhà đầu tư khác cũng chơi cổ phiếu, đầu tiên được 50 triệu, sau đó thua lại 40 triệu dù khi tổng kết cả hai người đều lời một số tiền như nhau.
Điểm tham chiếu
Kahneman và Tversky đã liên hệ hai cách ứng xử trên vào lĩnh vực tài chính hành vi. Khi đánh giá hiệu quả một hoạt động đầu tư, nhà đầu tư thường dựa trên một điểm tham chiếu. Tính từ điểm tham chiếu, nếu lỗ thì nhà đầu tư thất vọng nhiều hơn là niềm vui mang lại từ món lời, dù lời lỗ cùng một số tiền. Nói cách khác, cái đau của lỗ 10 triệu lớn hơn cái vui của lời 10 triệu.
Đối với người đầu tư cổ phiếu, điểm tham chiếu thường là giá mua cổ phiếu và họ khá ám ảnh bởi yếu tố này. Hành động bán hay tiếp tục giữ cổ phiếu của nhà đầu tư thường phụ thuộc vào thực tế lời lỗ của cổ phiếu đó. Khi giá cổ phiếu lên so với điểm tham chiếu, nhà đầu tư thường nhanh chóng bán lấy lời, chứ ít khi chờ giá lên đến đỉnh.
Ngược lại, khi giá cổ phiếu rớt dưới điểm tham chiếu, nhà đầu tư thường không bán, mà cứ giữ để chờ giá lên lại. Nhiều nghiên cứu đã thống kê cho thấy khi cổ phiếu lên giá khoảng 50%, thì đa số các nhà đầu tư đều dễ dàng quyết định bán, nhưng nếu lỗ 50% thì ít người chịu bán hơn. Khuynh hướng “sợ mất mát” của con người giải thích tại sao nhà đầu tư, kể cả những quỹ đầu tư tổ chức, ngại cắt lỗ vì khi cắt lỗ thì các khoản lỗ trên giấy tờ trở thành lỗ thật.
Bản chất con người là rất khó khăn khi phải thừa nhận sai lầm, nhất là thừa nhận với người khác. Bán cổ phiếu lỗ coi như thừa nhận mình đã sai. Đây chính là một trong những sai lầm của những nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm, là bán cổ phiếu lúc giá đang lên và giữ cổ phiếu đang xuống giá.
Trong trường hợp giá xuống so với giá mua, khuynh hướng liều lĩnh khi đối mặt với mất mát đã giải thích tại sao nhà đầu tư, không những không bán cắt lỗ, mà còn có xu hướng mua thêm cổ phiếu đang xuống giá. Nhà đầu tư làm như vậy thường với suy nghĩ là để bình quân giá, nhằm tăng khả năng hòa vốn khi cổ phiếu phục hồi. Trong khi sự thật là họ đang tự đưa mình vào hoàn cảnh rủi ro (lỗ) hơn: biết bao giờ giá ngừng giảm? Nếu giá tiếp tục xuống thì liệu nhà đầu tư có đủ vốn để tiếp tục mua vào bình quân giá đến cùng không? Có chắc là cổ phiếu đó sẽ phục hồi trong thời hạn ngắn hơn thời hạn đầu tư dự kiến không?
Điểm tham chiếu và thế nào là cổ phiếu rẻ!
Khái niệm điểm tham chiếu thật ra đã được Tversky và Kahneman đề cập trong một nghiên cứu sớm hơn vào năm 1974. Hai ông đề xuất rằng con người có khuynh hướng dựa vào một điểm tham chiếu khi phải giải quyết một vấn đề khó khăn. Hai ông có một thí nghiệm như sau: Khi được hỏi “Có phải khoảng 45% các quốc gia châu Phi là thành viên Liên hiệp quốc”, người được hỏi thường cho con số phần trăm thấp hơn là nếu được hỏi “Có phải khoảng 65% các quốc gia châu Phi là thành viên Liên hiệp quốc?”. Như vậy người trả lời đã ít nhiều bị ảnh hưởng bởi số phần trăm được đưa ra trong câu hỏi, nói cách khác họ đã có khuynh hướng dùng con số đó làm tham chiếu. Thí nghiệm này cho kết quả tương tự ở những lĩnh vực khác.
Liên hệ đến chứng khoán, vì việc xác định giá cổ phiếu thế nào là hợp lý là một việc khá phức tạp, nên các nhà đầu tư thường có khuynh hướng lấy giá gần đây của một cổ phiếu làm giá tham chiếu. Giả sử giá gần đây của cổ phiếu A là 80.000 đồng, nếu bây giờ là 50.000 đồng thì các nhà đầu tư thường nghĩ là rẻ. Thật ra rẻ đây là rẻ so với giá trước kia. Còn so với giá tương lai thì rõ ràng là không thể kết luận gì. Có người ví mua cổ phiếu dựa trên giá quá khứ của nó thì cũng giống như khi đi mua xe hơi cũ mà lấy năm sản xuất và kiểm tra công tơ met làm tiêu chuẩn cơ bản để định giá, thay vì phải xem xét tình trạng thực tế của máy móc thế nào.
TS. Bùi Quang Thông
TBKTSG
|