Mô hình tập đoàn kinh tế: Vẫn còn nhiều vướng mắc
Cần có một tổng kết đầy đủ và chính xác về mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKT). Đây là ý kiến của nhiều chuyên gia và DN khi đề cập tới mô hình TĐKT đã được thí điểm từ năm 2006 và nay đang tiếp tục mở rộng. Bởi theo các chuyên gia, có như vậy mới đánh giá được điểm mạnh - yếu của mô hình này khách quan và khoa học.
TS Lê Đăng Doanh - Viện nghiên cứu phát triển IDS cho rằng: “Từ trước đến nay, chưa hề công bố đề án thí điểm theo những tiêu chí khoa học, TĐKT được quản lý thế nào, nhân sự được lựa chọn theo tiêu chí gì, vấn đề độc quyền, vị thế thống lĩnh thị trường... Đó là những vấn đề rất cơ bản chưa có quy định tường minh. Từ năm 2006 đến nay đã có 8 TĐKT đang hoạt động, nhưng điều kiện, các thông số và khung thí điểm thế nào, nhằm đạt mục đích gì cho đến nay chưa được công bố”. Một chuyên gia kinh tế khác cho rằng, những thông số như: tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn cần phải đạt, tốc độ tăng năng suất lao động, tăng XK, tỷ lệ giảm tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu, các sáng chế, phát minh, việc bảo vệ môi trường cần được giao và đánh giá thường xuyên với các TĐKT và các DN nhà nước khác. Và những kết quả đánh giá này cần được làm hàng năm rồi công bố cho người dân biết vì nhóm DN này sử dụng vốn của dân (người dân với tư cách đồng sở hữu có quyền được biết).
Thiếu hành lang pháp lý
Một cán bộ thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia VN thừa nhận rằng khuôn khổ pháp lý việc tổ chức và hoạt động của các TĐKT chưa đầy đủ, mặc dù một số TĐKT đã được thành lập và hoạt động. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động của tập đoàn theo Luật DN. Vì vậy, trong quá trình hoạt động, TĐKT đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc như quản lý trong nội bộ tập đoàn, quản lý nhà nước đối với tập đoàn, thực hiện quyền chủ sở hữu đối với tập đoàn, cơ chế hoạt động, kinh doanh đa ngành... Nhiều quy định trong nội bộ tập đoàn đều phải xây dựng trên cơ sở vận dụng theo các quy định riêng hiện hành.
Cùng quan điểm trên, TS Đặng Văn Quang - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Hiện nay Ngân hàng đang xây dựng đề án thành lập tập đoàn tài chính. Tuy nhiên cũng đang gặp một số khó khăn về pháp lý, bởi tới thời điểm này ở VN chưa có tập đoàn tài chính ngân hàng nhà nước nào được thành lập. Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng... chưa đưa ra khung pháp lý cho loại hình tập đoàn tài chính ngân hàng. Vì vậy, theo ông Quang Chính phủ cần sớm ban hành nền tảng pháp lý cơ bản điều chính hoạt động của TĐKT nói chung và tập đoàn tài chính nói riêng.
Một đại diện khác của tập đoàn điện lực cũng khẳng định: Cơ sở pháp lý cho TĐKT chưa hoàn thiện và ở góc độ nào đó, sự quản lý của Nhà nước với hoạt động tập đoàn, tính chuyên nghiệp chưa cao. Bên cạnh đó, cũng chưa có tổ chức chuyên trách thuộc Chính phủ thực hiện chức năng của chủ sở hữu với các TĐKT quan trọng. (Hiện nay, chức năng này đang bị chia lẻ ra các bộ).
Đầu tư dàn trải
Cùng với việc thiếu khuôn khổ pháp lý thì thực tế đã cho thấy nhiều yếu kém trong kết quả sản xuất kinh doanh và về quản trị TĐKT nhà nước. Các TĐKT và TCty nhà nước có tình trạng đầu tư dàn trải, không tập trung vào ngành kinh doanh chính, đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro và không thuộc thế mạnh của mình như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng...
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, trong tổng số 70 TCty và TĐKT đã có 28 TCty tham gia góp vốn thành lập Cty chứng khoán, ngân hàng thương mại, Cty quản lý quỹ, Cty bảo hiểm và bất động sản với tổng số vốn là 23.344 tỷ đồng, bằng 8,7% vốn chủ sở hữu. Trong đó, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ là 1,1 lần vốn chủ sở hữu, TCty Thuốc lá 15,1%, TCty Đường sông miền Nam 50,2%... Các TĐKT và TCty nhà nước đã huy động vốn bên ngoài gấp 1,4 lần vốn chủ sở hữu. Theo Ban chỉ đạo phát triển và đổi mới DN, tính tới hết ngày 31/12/2007, 16 TĐKT và TCty nhà nước đã đầu tư trên 15 nghìn tỷ đồng vào các ngành ngoài như: chứng khoán, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bất động sản...
Mặc dù việc các TĐKT, TCty nhà nước quyết định đầu tư vào các ngành, lĩnh vực nêu trên không trái với quy định hiện hành. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nó sẽ có một số hậu quả, do các tập đoàn hiện đang nắm giữ nhiều nguồn lực của quốc gia. Đồng thời công tác giám sát đối với TĐKT nhà nước chưa được quan tâm thích hợp nên việc mở rộng phạm vi và lĩnh vực kinh doanh, dẫn tới chi phối thị trường và thu hẹp vai trò của DN khác, khu vực kinh tế khác, thiếu minh bạch trong thể hiện vai trò là một chủ thể kinh doanh với vai trò là công cụ quản lý nhà nước.
Trong khi đó, TS Nguyễn Quang A - Viện nghiên cứu phát triển IDS cho biết: Hiện nay chưa có số liệu thống kê chi tiết, cụ thể về khối TĐKT. Tuy nhiên, nhìn vào khối DN nhà nước nói chung mà TĐKT đang chiếm phần chủ chốt của nền kinh tế thì thấy còn những bất cập đáng kể. Trong khi khu vực DN nhà nước chỉ tạo ra 9-10% công ăn việc làm (bao gồm cả khu vực công là: y tế, giáo dục, an ninh...) thì khu vực DN tư nhân luôn đảm bảo 90% chỗ làm việc mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực DN tư nhân thấp hơn. Một chỉ số khác, với một đồng vốn để tạo ra doanh thu thuần: Trong khi DN nhà nước chỉ tạo ra 0,557 đồng thì DN tư nhân tạo ra 1,134 đồng và DN FDI tạo ra 0,969 đồng. Đây chính là một chỉ số nói lên hiệu quả kinh doanh...
Thay lời kết
Thiết nghĩ, trước xu hướng mở rộng mô hình TĐKT, vấn đề cần đặt ra là cần tổng kết lại TĐKT đã đạt được những tiến bộ gì, ưu việt gì so với mô hình TCty nhà nước trước đây, những điều đó cần được chứng minh bằng định lượng. Có như vậy, chúng ta mới có thể tiếp tục mô hình TĐKT đúng hướng và có hiệu quả như mong đợi.
Bên cạnh đó, nếu như các quốc gia phát triển phải mất hàng trăm năm để có những tập đoàn hoạt động trên quy mô toàn cầu thì với VN, dù đi tắt đón đầu cũng không thể có ngay những tập đoàn hùng mạnh trong "một sớm một chiều". Nếu như một số tập đoàn tên tuổi như: Lehman Brothers, UBS, Citi Groups, Merrill Lynch, Bear Steans, Morgan Stanley, Freddie Mac, Fannie Mae, Tribune Co, GM... với bề dày hàng trăm năm kinh nghiệm, quy mô lớn, phạm vi hoạt động toàn cầu được điều hành bởi những CEO hàng đầu vẫn rơi vào khủng hoảng, thậm chí tuyên bố phá sản thời gian qua thì chúng ta cũng không có gì đảm bảo rằng những tập đoàn của VN sẽ luôn lành mạnh và bền vững nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt. Tuy nhiên, với lợi thế là quốc gia đi sau, qua kinh nghiệm quốc tế, VN hoàn toàn có thể xây dựng các TĐKT mạnh bằng việc kết hợp những bước đi tuần tự với những đột phá cần thiết.
Có thể khẳng định, TĐKT là sản phẩm tất yếu, khách quan, ra đời và phát triển theo quy luật tích lũy, tích tụ tập trung, quy luật thị trường cạnh tranh và lợi ích kinh tế với lợi nhuận tối đa... Do vậy, không nên chủ quan duy ý chí, nóng vội hay áp đặt để phát triển mạnh, rộng rãi nhiều TĐKT tại VN khi tập đoàn đó chưa hội đủ các yếu tố như: tài chính, nhân lực, sản phẩm, công nghệ, uy tín, quản lý... - những yếu tố cơ bản để hình thành nên một tập đoàn.
TS Hoàng Đình Phi - Chủ tịch Tập đoàn sáng tạo Sannam: Lo ngại tình trạng khép kín
Theo thông lệ, nếu tập đoàn là một pháp nhân được đăng ký kinh doanh, thì tập đoàn này phải có cố phần chi phối từ 51% trở lên ở 5 DN hay nhiều hơn. Mặc dù các Cty thành viên đều có đăng ký kinh doanh riêng, nhưng trong đăng ký kinh doanh cần ghi rõ là trực thuộc tập đoàn nào, với tỷ lệ góp vốn điều lệ là bao nhiêu? Tập đoàn đóng vai trò là cổ đông lớn nhất. Nhưng các Cty thành viên các cổ đông của các Cty thành viên hoàn toàn có quyền bình đẳng theo luật trong quá trình quản trị DN. Tập đoàn không thể áp dụng các mệnh lệnh hành chính sai luật đối với các Cty con. Điều lo ngại nhất đối với các mô hình tập đoàn kinh doanh là tình trạng quan liêu, khép kín, độc quyền và thu xếp nội bộ trong quá trình cạnh tranh. Có một số TCty và tập đoàn có rất nhiều Cty thành viên làm cùng một nghề, có quyền giao thầu, chỉ định thầu, chia thầu nội bộ... Tình trạng này dẫn đến việc hạn chế cạnh tranh lành mạnh trong ngắn hạn và làm suy yếu dần khả năng cạnh tranh bền vững bằng năng lực công nghệ trong trung hạn và dài hạn.
Ông Đoàn Văn Kiển - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản VN: Cần xác lập hành lang pháp lý
Trong các văn bản hiện hành, Nhà nước đề cập đến lĩnh vực quản lý tập đoàn với tư cách là một Cty (Cty mẹ) mà chưa đề cập đến quản lý nhóm Cty mẹ - Cty con, tức là chưa đề cập đến việc quản lý tập đoàn các Cty. Chúng tôi kiến nghị quản lý tập đoàn với tư cách là Cty mẹ, một Cty vừa trực tiếp kinh doanh vừa đầu tư vốn vào các DN khác. Quản lý tập đoàn các Cty với tư cách là một tổ chức kinh tế không có tư cách pháp nhân nhưng có hạt nhân lãnh đạo, quản lý. Tổ chức này có kế hoạch phối hợp kinh doanh và có người điều hành nó, đó chính là Cty mẹ. Vì vậy, cần phải xác lập hành lang pháp lý để các Cty thành viên trong tập đoàn các Cty được quyền thỏa thuận hợp tác, sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của nhau nhằm khai thác có hiệu quả thị trường nội bộ, khai thác nội lực...
Tuấn Anh
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
|