Gia công điện: Phương thức đầu tư điện mới
Sau hình thức đầu tư nhà máy điện theo kiểu tự vay, tự trả của các nhà đầu tư trong nước hay xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT) của các nhà đầu tư nước ngoài, ngành điện đang chứng kiến sự xuất hiện của một phương thức đầu tư mới: gia công điện.
Dự án nhiệt điện Cẩm Phả 3 đặt tại Quảng Ninh mới được Thủ tướng Chính phủ cho phép Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) kết hợp với Công ty Kaidi Vũ Hán (Trung Quốc) đầu tư theo phương thức này đang mở ra một hình thức mới trong huy động vốn đầu tư vào ngành điện.
Tiết kiệm thời gian và cùng có lợi
Theo kế hoạch, TKV ngoài việc cung cấp mặt bằng sạch xây dựng nhà máy còn đảm trách cung cấp nhiên liệu xít thải - loại than có chất lượng rất thấp, nhiệt trị chỉ khoảng 2.500 kcal/kg. Lượng xít thải này sẽ chiếm khoảng 25% nhu cầu than của nhà máy và sẽ được trộn với than cám để sản xuất điện. Dự kiến TKV cũng sẽ bao tiêu điện sản xuất ra, bán lên lưới điện quốc gia. Trong khi đó thì đối tác nước ngoài sẽ bỏ vốn 100% cho đầu tư nhà máy điện để đổi lại một khoản tiền đều đặn hàng năm từ TKV.
Sau khoảng 10 năm hoạt động, Kaidi sẽ chuyển giao nhà máy điện với giá tượng trưng 1 USD cho TKV. Như vậy, Kaidi sẽ là người gia công điện cho TKV sau khi bỏ tiền ra xây dựng nhà máy tại Việt Nam. Theo kế hoạch, cuối năm 2012, nhà máy điện gia công này sẽ bắt đầu hoạt động với công suất 270 MW bao gồm 2 tổ máy.
Với một thực tế các nhà đầu tư trong nước đang tự mình bỏ tiền ra làm nhà máy điện và nhiên liệu đầu vào chủ yếu là than cám 5, cám 6, có nhiệt trị từ 4.500 kcal/kg trở lên thì việc một đối tác nước ngoài bỏ tiền ra đầu tư nhà máy và sử dụng xít thải là rất ý nghĩa khi lượng xít thải của quá trình sản xuất than sạch ở Quảng Ninh ngày càng nhiều. “Chúng tôi không mất tiền đầu tư mà vẫn có nhà máy và bán được điện cho hệ thống điện quốc gia. Còn đối tác nước ngoài tuy có tiềm lực để xây dựng nhà máy điện nhưng sẽ thoát khỏi những khó khăn và mất thời gian nếu đầu tư theo hình thức BOT như các nhà đầu tư nước ngoài khác. Đó là thương thảo giá điện với Tập đoàn Điện lực (EVN), các hợp đồng mua bán than với chính TKV và hợp đồng BOT với Chính phủ Việt Nam. Như vậy cả TKV và Kaidi đều được lợi và tiết kiệm được thời gian”, ông Đoàn Văn Kiển, Chủ tịch HĐQT của TKV nói.
Không phải không có rủi ro
Về khoản tiết kiệm thời gian thì vị Chủ tịch HĐQT của TKV hoàn toàn đúng. Ngay như dự án nhiệt điện Mông Dương 2 có công suất 1.200 MW mà Tập đoàn AES (Hoa Kỳ) dự kiến đầu tư bằng nguồn than mua từ TKV đã 3 năm nay không đàm phán xong hợp đồng mua bán điện cùng hợp đồng BOT để bước vào xây dựng nhà máy! Còn nếu là điện do TKV bán lên lưới quốc gia thì tuy chưa bàn xong giá điện vẫn có thể khởi công xây dựng nhà máy rồi sau đó vẫn bán được điện cho EVN, đơn cử như trường hợp Nhà máy điện than Sơn Động.
Tuy vậy, mong đợi của TKV trong việc đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn mà vẫn có nhà máy điện, đồng thời tiêu thụ được xít thải của quá trình khai thác than sạch không phải là không có rủi ro, mà ở đây chính là giá điện. “Cho dù đối tác nước ngoài có bỏ tiền ra để đầu tư nhà máy và không trực tiếp bán điện cho EVN thì TKV vẫn phải tính toán để có một mức chênh lệch hợp lý trả cho Kaidi so với mức giá điện mà TKV bán cho EVN”, ông Tạ Văn Hường, Vụ trưởng Vụ Năng lượng Bộ Công Thương nhận xét.
Mặc dù cho tới thời điểm này, TKV và Kaidi đã bàn thảo với nhau về các điều kiện căn bản của hợp đồng hợp tác nhưng mấu chốt nhất là giá điện cùng với tổng mức đầu tư của dự án vẫn chưa đi đến kết thúc. Vì vậy, ông Hường cũng cho rằng, phải có giá điện và các điều khoản rõ ràng thì mới biết hình thức này có hiệu quả hay không. Còn ông Kiển lại tỏ ra lạc quan khi cho rằng, thời điểm nhà máy đi vào hoạt động là cuối năm 2012, khi đó thị trường điện đã đi vào vận hành nên TKV có thể tham gia bán điện trên thị trường với giá cạnh tranh.
Giá thấp chưa chắc được huy động trước
Tuy nhiên, với những quy định hiện đang được Cục Điều tiết Điện lực xây dựng để vận hành thị trường điện thì cho dù tại thời điểm đó, thị trường điện dù đã đi vào vận hành nhưng sẽ không có chuyện các nhà máy điện trong hệ thống bán được cả 100% sản lượng làm ra theo kiểu “giá thấp được huy động trước”. Theo dự thảo quy định vận hành thị trường điện, giai đoạn 2009 - 2014 thị trường điện cạnh tranh vẫn vận hành theo phương thức 95% sản lượng điện sẽ được các nhà máy bán cho EVN thông qua hợp đồng bao tiêu. Chỉ còn 5% là đem ra chào bán cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, các nhà máy điện sẽ vẫn phải tiến hành đàm phán giá điện với EVN chứ không đơn giản cứ có điện là sẽ mang ra thị trường bán được.
Còn trên thực tế, thị trường điện cạnh tranh đang ngừng hoạt động từ tháng 7/2007 sau khi đã hoạt động phập phù trong nội bộ EVN kể từ năm 2002 với lý do rất đơn giản là: “cung nhỏ hơn cầu”.
“Điều kiện tiên quyết để vận hành thị trường điện là phải có dự phòng 20%. Với công suất của hệ thống hiện nay đã là hơn 15.000 MW, tuy có dư dả hơn so với năm 2007, 2008 nhưng mức dự phòng của hệ thống vào thời điểm căng thẳng nhất của năm cũng mới chỉ vào khoảng 5%. Đó là chưa kể năm 2009, kinh tế thế giới vẫn suy giảm nên sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng giảm theo, kéo theo nhu cầu điện giảm nên hệ thống mới bớt căng thẳng” - ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó giám đốc công ty mua bán điện thuộc EVN cho hay.
Thực tế này chắc chắn buộc TKV phải tính kỹ để không thua thiệt trong quá trình triển khai dự án gia công điện còn khá mới mẻ này.
Hoàng Minh
Diễn đàn Doanh nghiệp
|