Tiền chảy qua hệ thống ngân hàng: Tăng trưởng kỷ lục!
Năm 2007 sắp kết thúc, phân tích các dòng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng ước tính cho cả năm cho thấy, tốc độ tăng trưởng của các dòng vốn này đạt mức cao nhất từ trước tới nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng.
Đây là những diễn biến tích cực và rất đáng mừng của nền kinh tế - dấu hiệu nền kinh tế tiếp tục trong xu hướng đi lên ở thời điểm hiện tại cũng như trung và dài hạn. Đồng thời, cũng cho thấy hiệu quả đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng trong cả nước sau hơn 1 năm gia nhập WTO.
Thị trường vốn: Tăng trưởng lớn nhất trong 20 năm trở lại đây
Tính chung trong cả nước, tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%.
Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản... Bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng, tiêu dùng... cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng.
Tuy nhiên, vốn huy động trong xã hội còn có tốc độ tăng trưởng lớn hơn. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5%, một số ước tính khác tăng 37-37,5%, gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay.
Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã hội rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa hưởng lãi, vừa an toàn.
TP.HCM: quy mô tài chính - tiền tệ lớn nhất
Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế, tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất cả nước, ước tính đến hết tháng 12/2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn đạt 442.530 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006. Đây cũng là mức tăng lớn nhất từ trước tới nay.
Trong đó, vốn huy động bằng nội tệ đạt 327.792 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114.738 tỷ đồng, chiếm gần 26,0%. Phân theo đối tượng khách hàng và hình thức huy động thì tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt 169.298 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân đạt 245.965 tỷ đồng, phát hành giấy tờ có giá đạt 27.267 tỷ đồng. Diễn biến đó cho thấy tiềm năng vốn trong dân, trong xã hội ở khu vực TP HCM có thể huy động được lớn tới mức độ nào!
Về sức hấp thụ vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế qua điển hình ở Hà Nội và TP HCM cũng cho những diễn biến ngoài dự đoán.
Cũng tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn TP HCM ước tính đạt 346.918 tỷ đồng, tăng 51% so với cuối năm 2006. Phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241.190 tỷ đồng, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 105.728 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn thì dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 212.487 tỷ đồng, dư nợ trung và dài hạn đạt 134.431 tỷ đồng.
Tốc độ tăng dư nợ cho vay đó cũng cho thấy nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh của các DN, hộ dân cư trên địa bàn thành phố là rất lớn. Đồng thời dư nợ cho vay ngoại tệ lớn hơn số dư vốn huy động cho thấy nhu cầu vốn ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc cho đổi mới công nghệ và mở rộng kinh doanh là rất lớn. Bên cạnh đó, do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50%-60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều DN thích vay vốn ngoại tệ hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ.
Hà Nội: tốc độ tăng trưởng lớn nhất
Tại Hà Nội, nơi tập trung hội sở và đầu mối của 4 NHTM Nhà nước, 8 NHTM cổ phần và có số đông các NH khác, quy mô vốn huy động và dư nợ cho vay cũng diễn ra tương tự.
Ước tính đến hết 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng 36,12% so với cuối năm 2006. Còn số liệu thống kê cụ thể ở thời điểm sớm hơn cho hay, tính đến hết tháng 10/2007, đạt 326.624 tỷ đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều năm.
Dự báo đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố sẽ đạt 350.000-355.000 tỷ đồng, tăng 42-44% so với cuối năm 2006.
Tính đến hết năm 2007, nhiều NHTM cổ phần có tốc độ tăng trưởng vốn huy động tới 70% đến hơn 100% so với cuối năm trước. Đây là mức độ tăng trưởng cao hết sức “ngoạn mục” ngoài dự kiến từ đầu năm của hầu hết các nhà quản trị NH và cổ đông của các NH.
Nếu phân tích theo đối tượng khách hàng gửi tiền tại các NH trên địa bàn Hà Nội, thì đến hết tháng 10/2007, tiền gửi dân cư đạt 140.310 tỷ đồng, tăng 31,01% và tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 186.314 tỷ đồng, tăng 37,33% so với cuối năm trước.
Nguyên nhân vốn huy động của các tổ chức kinh tế tăng nhanh do nhiều DN thực hiện IPO, số vốn thu về lớn nhưng chưa sử dụng đến, tạm thời gửi NH. Một số DN bán cổ phần cho cổ đông chiến lược, phát hành cổ phần tăng vốn... quỹ thặng dư vốn và số vốn điều lệ tăng thêm chưa đầu tư được cũng tạm thời để trong tài khoản tiền gửi tại NHTM.
Nhiều DN trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu tiền sử dụng đất, tiền bán căn hộ, tiền bán nhà xây thô... của khách hàng, chưa sử dụng đến cũng tạm thời gửi NH. Quỹ đầu tư chứng khoán, vốn của các nhà kinh doanh chứng khoán, vốn chuẩn bị thành lập mới NHTM cổ phần, công ty tài chính cổ phần, công ty chứng khoán... chưa đi vào hoạt động tạm thời để trên tài khoản tại NH được lựa chọn. Trong số đó có cả vốn phát hành trái phiếu chưa giải ngân được cũng để trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn!
Phân theo tiền tệ, vốn huy động nội tệ đạt 236.180 tỷ đồng, tăng 39,05% và vốn huy động ngoại tệ đạt 90.444 tỷ đồng, tăng 24,05% so với cuối năm trước. Nguyên nhân vốn huy động nội tệ tăng cao hơn vốn huy động ngoại tệ ở Hà Nội cũng giống như ở TP HCM.
Vốn huy động tăng nhanh một mặt phản ánh nền kinh tế Việt Nam đang rất sôi động, hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế ngày càng nâng cao một cách bền vững. Mặt khác cũng phản ánh thu nhập của người dân, của các DN cũng nâng cao. Trong số nguồn thu nhập đó có khối lượng đáng kể là kiều hối, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về.
Tại Hà Nội, dư nợ cho vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay của các NHTM và tổ chức tín dụng tăng 38,5% so với cuối năm 2006. Còn số liệu thống kê cụ thể cho hay, tính đến hết tháng 10/2007, tổng dư nợ cho vay đạt 163.838 tỷ đồng, tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa nhiều so với dự báo từ đầu năm của các NH. Một số NHTM cổ phần sẽ có mức tăng trưởng dư nợ tới 55% đến 65%.
Về cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng, tăng 33,50% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63.749 tỷ đồng, tăng 44,1%. Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên. Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các KCN, khu chế xuất, khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ôtô, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, siêu thị... cũng tăng cao.
Về cơ cấu dư nợ theo tiền tệ, dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 100.092 tỷ đồng, tăng 38,8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34,72%. Nguyên nhân dư nợ cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở TP.HCM.
Không chỉ riêng Hà Nội và TP.HCM, mà trong cả nước, nhất là những tỉnh, thành phố lớn, có tốc độ công nghiệp hoá nhanh... các luồng vốn huy động, thanh toán, cho vay... của hệ thống NH trong cả nước cũng có tốc độ tăng trưởng cao ngoài dự kiến.
Tính đến hết tháng 9/2007, tổng dư nợ cho vay của các NHTM và tổ chức tín dụng trong toàn quốc tăng 35% so với cuối năm 2006 và ước tính đến hết tháng 10/2007 tăng 38%, gấp gần 2 lần mức tăng cùng kỳ năm 2006. Riêng khối NHTM cổ phần có tốc độ tăng dư nợ tới 103% so với cùng kỳ năm 2006 và tăng 65% so với đầu năm, chiếm 24,7% thị phần tín dụng của toàn bộ các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước, tăng mạnh so với tỷ lệ 19,7% cuối năm 2006.
Những tác động và nguyên nhân
Diễn biến về vốn nói trên qua hệ thống NH cho thấy những tác động và nguyên nhân sau:
Một là, số đông người dân, các DN, hộ kinh doanh ngày càng làm quen với dịch vụ NH tiện ích, tin tưởng NH, tăng khả năng tiết kiệm và sử dụng tiền nhàn rỗi gửi vào NH vừa an toàn, vừa có lãi, vừa được hưởng các tiện ích khác từ dịch vụ NH hiện đại.
Không chỉ mở tài khoản thanh toán, mở tài khoản sử dụng thẻ mà còn gửi tiết kiệm với các kỳ hạn khác nhau. Đây là xu hướng văn minh, tiến bộ của nền kinh tế, cho phép giảm tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán thẻ, thanh toán điện tử liên NH... ngày càng được sử dụng phổ biến hơn. Bởi vì một chỉ tiêu quan trọng đánh giá triển vọng phát triển của nền kinh tế đó là tốc độ người dân chấp nhận và khả năng tiếp cận với các dịch vụ NH, kể cả vay tiền. Đồng thời số đông người dân, DN mạnh dạn vay vốn ngân hàng không chỉ đầu tư cho sản xuất kinh doanh mà còn cho tiêu dùng: mua nhà ở, mua ôtô, mua phương tiện sinh hoạt, đi du học, du lịch và đi chữa bệnh nước ngoài...
Hai là, về nguyên lý cũng như thực tiễn, vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống NH thời kỳ này sẽ tạo ra tăng trưởng ở thời kỳ sau, ít nhất là 6 tháng. Như vậy trong các tháng cuối năm cũng như năm 2008 và các năm tới có thể khẳng định nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có tốc độ phát triển cao không chỉ dư vốn cho vay của hệ thống NH mà còn do tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán, khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các kênh đầu tư khác: đầu tư trên TTCK, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập quỹ đầu tư và DN.
Ba là, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đổi mới mạnh mẽ và cạnh tranh rất sôi động sau 1 năm nền kinh tế nước ta gia nhập WTO. Mạng lưới của các NH được mở rộng với tốc độ rất nhanh đến gần dân, tiện lợi cho DN. Công nghệ NH đang sử dụng và chuẩn bị được lắp đặt ở vào trình độ hiện đại của thế giới. Quy mô vốn điều lệ và năng lực tài chính của các NH được nâng cao lên rõ rệt. Trình độ quản trị điều hành, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Các quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác... giữa các NHTM trong nước với các tập đoàn tài chính lớn của thế giới, với các DN khác của Việt Nam theo hướng hình thành tập đoàn kinh doanh đa năng... ngày càng chặt chẽ.
Tất nhiên còn rất nhiều việc phải làm cả về điều hành chính sách tiền tệ, quản lý Nhà nước về hoạt động NH, cấp giấy phép thành lập NH và công ty tài chính mới, thủ tục tăng vốn điều lệ... để hệ thống NH Việt Nam phát triển vững chắc và mạnh mẽ hơn nữa. Song những chuyển biến nói trên cho thấy năng lực cạnh tranh và hiệu quả đối với nền kinh tế của hệ thống NH Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO.
VNN
|