Áp lực cho vay!
Các ngân hàng thương mại đang chịu áp lực rất lớn phải tăng dư nợ cho vay và nếu công tác thẩm định không được duy trì chặt chẽ sẽ khiến hệ thống ngân hàng gặp rủi ro.
Chỉ còn hơn hai tuần nữa là hết năm 2007, cũng là lúc đến hạn các ngân hàng phải trả lời cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về tỷ lệ cho vay chứng khoán đang ở mức nào, 3% trở xuống hay cao hơn. Đây là quy định của Chỉ thị 03 có hiệu lực hồi cuối tháng 5-2007.
NHNN chi nhánh Hà Nội cho biết đến cuối năm sẽ có “bốn trên tám ngân hàng cổ phần trên địa bàn có tỷ lệ dư nợ cho vay chứng khoán bằng hoặc thấp hơn 3%”. NHNN chi nhánh TP.HCM trong báo cáo tình hình hoạt động của các ngân hàng trên địa bàn trong năm qua không cho biết còn bao nhiêu ngân hàng chưa đạt tỷ lệ này, nhưng chắc chắn còn một vài ngân hàng bị “trễ hẹn” tính đến thời điểm này.
Để cố gắng đáp ứng yêu cầu của NHNN, các ngân hàng thương mại đang tìm cách đẩy mạnh cho vay các lĩnh vực khác để nâng tổng dư nợ cho vay và gián tiếp hạ thấp tỷ lệ cho vay chứng khoán. Nếu chấm dứt hợp đồng cho vay chứng khoán trước hạn, theo Bộ luật Dân sự, rất có thể ngân hàng sẽ bị khách hàng kiện, và điều này sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Việc yêu cầu khách hàng bán chứng khoán để kết thúc hợp đồng trước hạn càng khó khăn hơn, đặc biệt khi giá chứng khoán đang giảm.
Tuần trước, Hiệp hội Ngân hàng họp tại TP.HCM cũng đề cập đến vấn đề này. Hiệp hội không muốn đề nghị gia hạn thời gian thực hiện Chỉ thị 03 mà chỉ muốn NHNN khi thanh tra, cần lưu ý đến các khoản cho vay chứng khoán được ký trước khi Chỉ thị 03 có hiệu lực, không nên nhìn vào tổng số cho vay chứng khoán để phạt các ngân hàng. Các thành viên của hiệp hội đang cố gắng hết sức để chấp hành, nhưng nếu sử dụng biện pháp đẩy nhanh tổng dư nợ thì hậu quả sẽ khó lường.
Trước mắt là thế. Một vài năm tới, áp lực đẩy mạnh cho vay cũng rất lớn. Theo các quy định hiện hành, các ngân hàng hiện tại phải có vốn điều lệ tối thiểu là 1.000 tỉ đồng vào cuối năm 2008 và 3.000 tỉ đồng đến năm 2010. Các ngân hàng mới thành lập cũng thế, phải có vốn ít nhất là 1.000 tỉ đồng ngay khi thành lập, và nếu hồ sơ nộp sau năm 2008 thì vốn tối thiểu là 3.000 tỉ đồng.
Ở Hà Nội, bảy trên tám ngân hàng cổ phần hiện đã có vốn từ 1.000-2.000 tỉ đồng. Còn ở TP.HCM, hai ngân hàng có vốn trên 2.000 tỉ đồng, năm trên 1.000 tỉ đồng và bảy trên 500 tỉ đồng. Như vậy, các ngân hàng còn thiếu vốn sẽ phải tăng cho đủ, và đủ rồi thì phải tìm ra chỗ để đầu tư sao cho có hiệu quả. Đối với các ngân hàng nội địa, chẳng có lĩnh vực kinh doanh nào đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho vay.
Thực tế là tiền gửi tại các ngân hàng đang tăng rất mạnh (ở TP.HCM là 55% ước cho cả năm và ở Hà Nội là 34,54% trong vòng 10 tháng). Cộng với lượng vốn cổ phần mới và vốn góp (trong liên doanh) tăng thêm cũng như sự gia nhập của các ngân hàng mới thì mức độ cạnh tranh trên thị trường cho vay sắp tới được dự báo sẽ rất gay gắt và khó có thể tránh khỏi việc giành giật khách hàng.
Nếu ngân hàng giành khách hàng bằng cách nâng mức cho vay lên quá cao (dĩ nhiên là không quá 15% vốn tự có đối với một khách hàng theo quy định hiện hành) hoặc đưa ra điều kiện cho vay dễ dàng thì quả là rủi ro. Đấy là chưa nói đến việc quy mô vốn tăng nhanh nhưng liệu công tác quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro có theo kịp hay không.
Liên quan đến chuyện tăng vốn, các ngân hàng liên doanh cho biết họ đang gặp khó khăn. Indovina Bank hiện có vốn lớn nhất (50 triệu đô la Mỹ, tương đương khoảng hơn 800 tỉ đồng), ba ngân hàng còn lại có vốn từ 10-20 triệu đô la Mỹ (160-320 tỉ đồng).
Để tăng vốn lên 1.000 tỉ đồng vào cuối năm tới và 3.000 tỉ đồng đến năm 2010 quả là không dễ. Ngân hàng liên doanh Việt-Thái (Vinasiam Bank) cho rằng tăng vốn như thế là quá nhanh đối với khối liên doanh. Hiện đã có quy định cho phép ngân hàng liên doanh chuyển đổi hình thức thành 100% vốn nước ngoài, tuy nhiên theo Ngân hàng Việt-Thái, nên cho phép ngân hàng liên doanh chuyển thành ngân hàng cổ phần để dễ tăng vốn hơn.
TBKTSG
|