Những nguyên nhân khiến đồng USD có thể tiếp tục bị mất giá
Đồng USD có khả năng sẽ tiếp tục bị giảm giá trong thời gian tới, do chịu sức ép từ việc thế giới tìm cách cân bằng cán cân thương mại và tác động từ cuộc khủng hoảng trên thị trường bất động sản của Mỹ trong thời gian qua.
Bất chấp những tuyên bố của Bộ trưởng tài chính Mỹ Henry Paulson rằng "Mỹ muốn có đồng USD mạnh", đồng tiền này vẫn tiếp tục bị trượt giá trên các thị trường tiền tệ thế giới. Giá trị của các đồng tiền chủ chốt như đồng euro -nạn nhân chính của đồng USD yếu- cùng với đồng bảng Anh và đôla Canađa, đã vượt qua hết kỷ lục này đến kỷ lục khác. Triển vọng 1 euro đổi được 1,5 USD dường như không còn quá xa vời. Nhiều chính trị gia, đặc biệt là của Pháp và một số nước châu Âu, cùng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã phải lên tiếng báo động rằng sự tăng giá mạnh mẽ của đồng tiền chung châu Âu và sự sụt giá của đồng bạc xanh vẫn là một trong những chủ đề chính của chương trình nghị sự kinh tế chính trị quốc tế từ nhiều năm nay, trong đó phải kể đến các kỳ họp của hội nghị thượng đỉnh tài chính các nước G7 quy tụ bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương của 7 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới và hội nghị của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Nguyên nhân chính dẫn tới sự đồng thuận xung quanh chiến lược mang tính quốc tế này là sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán. Đây là vấn đề đáng lo ngại trong vòng 10 năm trở lại đây đối với nhiều nước. Theo thống kê của IMF, mức thâm hụt cán cân buôn bán của Mỹ trong năm 2006 tương đương 6% GDP, mức cao chưa từng có trong lịch sử nước này. Trong khi đó một số nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản lại đạt thặng dư thương mại ngày càng lớn. Năm 2006, thặng dư thương mại của Nhật Bản đạt 3,9% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 9,4% GDP.
Trong khi đó, thu nhập từ dầu mỏ của các nước xuất khẩu dầu lớn cũng góp phần vào việc làm mất cân bằng thương mại toàn cầu. Thặng dư thương mại của các nước giầu dầu khí như Nga và Arập Xêút hiện đã lên tới 7,6% và 27,4% GDP. Hiện chỉ có khu vực đồng euro (Eurozone) là đạt được sự cân bằng tương đối trong cán cân buôn bán. Trong con mắt của các chuyên gia kinh tế IMF và G7, chỉ có đồng tiền chung châu Âu là được định giá tương đối đúng. Thế nhưng, để giải quyết toàn bộ mức thâm hụt thương mại khổng lồ của Mỹ thì việc hạ giá đồng USD là điều cần thiết, mặc dù theo đánh giá của một số thống đốc ngân hàng trung ương thì điều đó cũng vẫn chưa đủ.
Trong một số báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế thế giới công bố vào giữa tháng 10 vừa qua tại Oasinhtơn, IMF đã nhấn mạnh tới triển vọng khả quan trong cán cân thương mại của Mỹ. Trong 8 tháng đầu năm 2007, mức thâm hụt thương mại của nước này đã giảm xuống 471,8 tỷ USD, so với 517,4 tỷ USD cùng kỳ năm trước, nhờ xuất khẩu đã có bước tăng trưởng với kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng tháng đã tăng từ 120 tỷ USD lên 131 tỷ USD. Chỉ riêng trong quý III/07, xuất khẩu hàng hóa của Mỹ cũng đã đạt mức tăng trưởng tới 16,2%. Năm 2005, khi tỷ giá giữa đồng euro và USD là 1 euro đổi 1,25 USD, kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng tháng của Mỹ là 107 tỷ USD. Tuy nhiên, giá trị nhập khẩu tăng do dầu mỏ lên giá khiến cho cán cân thương mại của nước này chỉ cải thiện được chút ít. Xu hướng thâm hụt thương mại kéo dài đã tạo nên áp lực khiến đồng USD tiếp tục giảm giá.
Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ. Nhờ đồng euro có sức mua mạnh, các doanh nghiệp trong khu vực Eurozone và Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ. Năm 2000, khi người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề đồng euro yếu, châu Âu đã đầu tư 125 tỷ USD vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn 122 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân trong lĩnh vực này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ USD năm 2000 lên 127 tỷ USD năm 2006 và trong 6 tháng đầu năm 2007 con số này cũng đã đạt 85 tỷ USD. Tóm lại, từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có xu hướng chảy từ Mỹ sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn cầu khi mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ là 85 tỷ USD, trong khi lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm vào đó là cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng tài chính phải chịu sức ép không thuận lợi của việc đồng USD mất giá.
Trong ngắn hạn, đồng USD có khả năng sẽ tiếp tục giảm giá. Theo các nhà phân tích, hậu quả của cuộc khủng hoảng trên thị trường bất động sản Mỹ sẽ còn ảnh hưởng trong nhiều tháng nữa, và kinh tế của nước này cũng có thể sẽ tăng trưởng chậm lại. Để tránh rơi vào suy thoái, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã không ngần ngại thực hiện chính sách tiền tệ mềm dẻo. Theo đó, sự rút ngắn về khoảng cách giữa lãi suất của châu Âu và Mỹ sẽ làm cho đồng USD giảm giá. Nếu không có những thông điệp mạnh mẽ từ thống đốc các ngân hàng trung ương thế giới, xu hướng giảm giá của đồng USD sẽ khó có thể đảo ngược trong thời gian tới.
Tuy nhiên, thực tế này có thể không phải là nguyên nhân chính làm suy yếu đồng USD. Theo quan điểm của IMF và bộ trưởng tài chính các nước G7, sự định giá quá thấp của các đồng tiền châu Á, đặc biệt là đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc và đồng yên Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh toán quốc tế này giảm giá. Để hạn chế sự mất cân bằng thương mại hiện nay, Trung Quốc và Nhật Bản cần phải kích thích tiêu dùng nội địa và không định hướng chính sách tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Để làm được điều đó, không có gì thích hợp hơn là áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi để cho đồng nội tệ tự định giá. Đối với Trung Quốc, biện pháp này không những có thể giúp họ kiềm chế xuất khẩu và hạn chế những tác động do lạm phát gây ra, mà việc tăng giá đồng NDT còn tạo điều kiện cho người dân Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng hóa của Mỹ và châu Âu hơn. Kịch bản này cũng nên được Nhật áp dụng và nếu điều đó thành hiện thực, thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm bớt và đồng USD khi đó sẽ có thể tăng giá trở lại.
TTXVN
|