PMI tháng 10 đạt 50.6 điểm, sản lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại thành mức thấp của 13 tháng
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (Purchasing Managers' Index) ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global giảm từ 52.5 điểm tháng 9 còn 50.6 điểm trong tháng 10.
Mặc dù chỉ số vẫn nằm trên ngưỡng không tăng không giảm 50, cho thấy các điều kiện hoạt động trong tháng về tổng thể vẫn cải thiện, nhưng kết quả này là mức thấp nhất trong thời kỳ tăng kéo dài 13 tháng gần đây.
Nhân tố chính khiến tăng trưởng tổng thể chậm lại là mức tăng yếu hơn của số lượng đơn đặt hàng mới. Tổng số lượng đơn đặt hàng mới chỉ tăng nhẹ, với mức tăng ít nhất từ khi bắt đầu thời kỳ tăng hiện nay vào tháng 10/2021. Những nơi số lượng đơn đặt hàng mới tăng được cho là do nhu cầu tăng, cạnh tranh giá cả và nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới. Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu giảm, kể cả nhu cầu hàng xuất khẩu cũng tăng với tốc độ chậm hơn.
Các nhà sản xuất tiếp tục gia tăng sản xuất vào đầu quý cuối năm để đáp ứng số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng. Tuy nhiên, phù hợp với xu hướng số lượng đơn đặt hàng mới và những dấu hiệu nhu cầu giảm, tốc độ tăng đã chậm lại và là mức thấp của ba tháng. Sản lượng tăng được ghi nhận ở tất cả lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa trung gian và hàng hóa đầu tư cơ bản.
Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn được phản ánh vào tình trạng tăng yếu hơn của hoạt động mua hàng và việc làm trong tháng 10. Hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng với mức ít đáng kể nhất trong bảy tháng, trong khi tốc độ tạo việc làm là thấp nhất kể từ tháng 7. Tuy nhiên, số lượng nhân viên vẫn tăng mạnh trong tháng, từ đó góp phần làm giảm lượng công việc tồn đọng khi số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn đồng nghĩa năng lực sản xuất không phải chịu áp lực.
Tồn kho cả hàng mua và hàng thành phẩm đều giảm trong tháng 10, đảo ngược xu hướng tăng được ghi nhận trong kỳ khảo sát trước. Mức giảm của hàng tồn kho trước sản xuất trên thực tế là đáng kể nhất trong 16 tháng khi số lượng đơn đặt hàng mới và hoạt động mua hàng tăng chậm hơn, trong khi tồn kho hàng thành phẩm thường giảm do sản xuất tăng chậm hơn.
Tốc độ tăng chi phí đầu vào nhanh hơn nhưng vẫn tương đối thấp và chậm hơn nhiều so với thời gian trước đó trong năm. Giá cả đầu vào tăng do chi phí dầu, khí đốt, nguyên vật liệu thô và vận tải tăng. Mức tăng giá đầu ra vẫn còn nhẹ và trên thực tế đã giảm nhẹ so với tháng 9.
Đây là lần thứ ba liên tiếp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn thêm một chút trong tháng 10, cho thấy chuỗi cung ứng tiếp tục ổn định sau thời gian liên tục gián đoạn. Hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng chậm hơn làm giảm áp lực lên các nhà cung cấp, mặc dù vẫn có những trường hợp chậm giao hàng do khan hiếm nguyên vật liệu và những khó khăn trong khâu vận tải.
Mặc dù số lượng đơn đặt hàng mới được kỳ vọng cải thiện và đại dịch COVID-19 không còn gây gián đoạn sản xuất giúp các nhà sản xuất vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới, niềm tin kinh doanh đã giảm thành mức thấp của 13 tháng với những lo ngại nhu cầu có dấu hiệu giảm.
Ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, nói:
“Dữ liệu PMI tháng 10 cho thấy những dấu hiệu đầu tiên rằng tình trạng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu đang bắt đầu ảnh hưởng đến tăng trưởng tại các nhà sản xuất của Việt Nam khi cả số lượng đơn đặt hàng mới và xuất khẩu đều tăng với tốc độ yếu nhất trong 13 tháng. Những lo ngại về tình trạng nhu cầu cũng ảnh hưởng đến niềm tin kinh doanh.
Tuy nhiên, tình trạng sản lượng và việc làm tiếp tục tăng cùng áp lực giá cả và nguồn cung giảm có thể giúp ngành sản xuất tiếp tục xu hướng tăng trong cuối năm”.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies). Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất (manufacturing sector) được chia thành 8 mảng: Kim loại (basic metals), hóa chất và nhựa (chemicals & plastics), điện và quang học (electrical & optical), thực phẩm và đồ uống (food & drink), kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering), dệt và may mặc (textiles & clothing), giấy và gỗ (timber & paper), vận chuyển (transport).
|
Gia Nghi
FILI
|