Đòi hỏi về trách nhiệm thẩm định, cấp phép cho doanh nghiệp phát hành riêng lẻ là sai!
Dư luận đang đặt câu hỏi về trách nhiệm thẩm định, cấp phép cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ (TPRL) ở đâu khi vụ việc tại Tân Hoàng Minh bung vỡ. Nhìn từ khía cạnh pháp lý, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, đây là một câu hỏi sai hoàn toàn với bản chất thị trường của nền kinh tế, nơi mà bất kỳ ai cũng có quyền lập cả trăm doanh nghiệp và doanh nghiệp xứng đáng được trao quyền gọi vốn chủ động trên thương trường…
Nhà đầu tư phải tự tỉnh ngộ…
Không có gì nguy hiểm bằng ma tuý. Ai cũng biết sự nguy hiểm này, nhưng cả thế giới này từ xưa đến nay vẫn luôn phải đối mặt với tội phạm ma tuý. Cái gốc quản trị rủi ro không nằm ở quy định phải thắt chặt, mà phải ở nhận thức và cách hành xử của các chủ thể tham gia thị trường...
LS. Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI
|
Các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán ra công chúng phải trải qua quá trình thẩm định, cấp phép của cơ quan quản lý là bình thường, bởi nó ảnh hưởng đến lợi ích của số đông, nhưng với trái phiếu riêng lẻ, LS. Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC cho rằng, nếu quy định càng chặt, càng siết sẽ càng sai nguyên tắc thị trường. Hãy nhìn từ cái gốc thành lập ra doanh nghiệp. Thời kỳ đầu tại Việt Nam, để cho một doanh nghiệp ra đời rất khó, phải cấp Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định. Tuy nhiên, nhiều năm nay, Luật Doanh nghiệp đã mở bung quyền thành lập doanh nghiệp cho tất cả, mọi điều kiện khởi sự kinh doanh đều trở nên dễ dàng, cho phép cá nhân hoặc nhóm có quyền thành lập cả trăm, thậm chí cả nghìn doanh nghiệp, nếu muốn. “Luật không hạn chế các cá nhân, doanh nghiệp vay vốn từ bạn bè, từ ngân hàng, từ các tổ chức, cá nhân để phát triển kinh doanh, nên cửa gọi vốn từ phát hành TPRL không thể bị quản bằng thẩm định, cấp phép như cách mà nhiều người đang đặt câu hỏi hiện nay”, ông Đức nói.
Chia sẻ với chúng tôi, Chủ tịch Vietinbank Capital Khổng Phan Đức nêu quan điểm, mọi nhu cầu của doanh nghiệp đều chính đáng, cho dù đó là các nghiệp vụ kinh doanh hàm chứa rủi ro, thậm chí là rủi ro cao như nhu cầu khởi nghiệp, mở rộng kinh doanh, đầu tư dự án mới, cứu trợ mất thanh khoản, cứu trợ phá sản... đều đáng được tiếp cận nguồn vốn. Các nghiệp vụ kinh doanh rủi ro cao là nơi các nguồn vốn vay tín dụng không thể chạm tới, vì NHTM là một loại hình định chế tài chính được thiết kế chủ yếu để phục vụ nhu cầu vốn ngắn hạn và không chấp nhận rủi ro cao.
Cũng theo ông Khổng Phan Đức, trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ là thỏa ước dân sự mở rộng giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư, là cách thức mà một doanh nghiệp có thể huy động thêm được nguồn lực cần thiết cho quá trình hoạt động và phát triển của mình. Ở góc nhìn nào đó, nó không khác gì việc DN tuyển dụng lực lượng lao động vào làm việc tại doanh nghiệp. “Cần tôn trọng sự thỏa ước của hai bên theo hướng dân sự. Không nên và tuyệt đối không nên ra điều kiện quá chặt chẽ, chi tiết về việc doanh nghiệp phải như thế nào mới được tuyển lao động và người lao động như thế nào mới được đi làm”, Chủ tịch Vietinbank nói.
Vậy để xây thị trường TPRL chuyên nghiệp, nên đi theo hướng nào? Theo Giám đốc Công ty Luật ANVI, pháp lý phải tôn trọng nguyên tắc thị trường và nên “gói” trong 3 từ khóa: minh bạch, cảnh báo và chế tài. Đã gọi là thị trường thì hàng hoá có thể bán 1 đồng, cũng có thể bán 1 triệu đồng, tùy thỏa thuận giữa người mua và người bán. Việc của người tạo chợ là phải thúc đẩy sự minh bạch, giám sát để cảnh báo và có chế tài thật mạnh với các hành vi gian lận, trục lợi của các bên.
Bình luận về nỗi lo của rất nhiều người về khả năng rủi ro thị trường trái phiếu doanh nghiệp bung vỡ khi trong 2 năm 2020-2021, các doanh nghiệp đã huy động trên 1.000.000 tỷ đồng từ TPRL, trong đó có trên 50% không có tài sản đảm bảo, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, cái gốc không nằm ở quy định pháp lý, mà ở nhận thức và cách hành xử của các chủ thể tham gia thị trường. “Không có gì nguy hiểm bằng ma tuý. Ai cũng biết sự nguy hiểm này, nhưng cả thế giới này từ xưa đến nay vẫn luôn phải đối mặt với tội phạm ma tuý”, ông nói. “Hãy để thị trường lên tiếng bằng những trải nghiệm cụ thể. Các chủ thể, nhất là nhà đầu tư, sẽ phải tự tỉnh ngộ sau một vài vụ bung vỡ như câu chuyện tại Tân Hoàng Minh”, người đứng đầu Công ty luật ANVI chia sẻ.
Theo ông Trương Thanh Đức, nhà đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp với lãi suất 12-18% không thể đòi hỏi an toàn như gửi tiết kiệm hưởng lãi suất 5% được. Lợi nhuận cao luôn đi kèm rủi ro cao. Nhà đầu tư đòi hỏi thị trường TPRL phải thật an toàn cũng giống như các doanh nghiệp đòi hỏi lãi suất vay bằng trái phiếu thấp như lãi suất ngân hàng. Đó là… hoang tưởng.
Quan điểm của luật sư Trương Thanh Đức khá tương đồng với góc nhìn của ông Trần Lê Minh, Giám đốc chi nhánh Hà Nội Công ty Quản lý quỹ đầu tư Dragon Capital Việt Nam. Chia sẻ trong hội thảo của Câu lạc bộ Nhà báo chứng khoán cuối năm 2021, ông Trần Lê Minh cho rằng, thị trường TPRL trong 2 năm trở lại đây có lúc phát triển nóng đến mức cần một tiếng chuông rung lên đủ lớn. “Theo cá nhân tôi, để thực sự đánh thức nhà đầu tư, thị trường cần có một thương vụ mất khả năng thanh toán tương đối lớn. Từ rủi ro thực tế sẽ giúp nhà đầu tư nhận diện ra rủi ro thị trường và từ đó có cái nhìn thận trọng hơn với kênh đầu tư chứng khoán”. “Tiếng rung sẽ cho thấy, thị trường Việt Nam hoạt động bình thường, chứ không phải theo kiểu ai cũng muốn phát hành trái phiếu và ai cũng có thể trả nợ", ông Minh nhấn mạnh.
Trong một chia sẻ vào giữa năm 2021, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết, ông ở Mỹ 42 năm, nhưng chưa bao giờ ông mua trái phiếu doanh nghiệp, nếu có nhu cầu thì cũng chỉ mua qua quỹ tương hỗ. Ông cũng thấy nhiều nhà đầu tư cá nhân ở Mỹ không đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp. Thế nhưng, ở Việt Nam thì vài năm qua, thị trường trái phiếu doanh nghiệp bùng nổ, rất nhiều nhà đầu tư cá nhân “xuống tiền”. Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, lãi suất cao đã hấp dẫn quá nhiều người đưa tiền vào trái phiếu, trong khi nhà đầu tư chưa ý thức rõ trách nhiệm của mình là phải tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu các rủi ro phát sinh trong việc đầu tư và giao dịch trái phiếu.
Trong quan sát của luật sư Trương Thanh Đức, dù thị trường phát triển nóng trong 2 năm qua, nhưng những chủ thể (doanh nghiệp) rắp tâm lừa nhà đầu tư chỉ là thiểu số. “Đại đa số doanh nghiệp muốn huy động vốn để thêm cơ hội phát triển, nên chính sách cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp lớn lên, đồng thời với việc phải xử lý thật nhanh, thật mạnh các sai phạm, lừa đảo trên thương trường để tạo kỷ cương cho tất cả các chủ thể”, luật sư Trương Thanh Đức kiến nghị.
Xử lý nhanh và mạnh những hành vi lừa đảo nhà đầu tư, ý ông Đức muốn đặt trong mối tương quan với chế tài xử lý tội phạm ma túy.
Trái phiếu riêng lẻ: Cửa mở cho doanh nghiệp từ bao giờ?
Trong 2 năm 2020-2021, các doanh nghiệp đã huy động trên 1.000.000 tỷ đồng từ trái phiếu phát hành riêng
|
Chia sẻ về cái gốc pháp lý định hình kênh gọi vốn qua TPRL, ThS. Phạm Văn Hiếu, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) cho biết (*), khởi đầu từ năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/NĐ-CP ngày 17/9/1994 kèm theo Quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DN nhà nước. Tiếp đó, căn cứ theo Luật doanh nghiệp năm 2005 (quy định quyền của công ty cổ phần được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu), Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 quy định về phát hành TPDN riêng lẻ. Cùng năm 2006, Luật Chứng khoán ra đời, quy định về phát hành trái phiếu ra công chúng (điều kiện phát hành, hồ sơ, quy trình đăng ký chào bán) như đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ (cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet); quy định việc chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty không phải công ty đại chúng thực hiện theo Luật Doanh nghiệp và quy định của pháp luật có liên quan; quy định chung về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng và giao Chính phủ hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành TPDN theo hướng tăng tính công khai, minh bạch trong quá trình huy động vốn trái phiếu so với Nghị định số 52/2006/NĐ-CP và nâng cao trách nhiệm của DN phát hành trái phiếu.
Từ năm 2017, thị trường TPDN phát triển nhanh, trên cơ sở đánh giá quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 90/2011/NĐ-CP và tình hình thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2018/ NĐ-CP về phát hành TPDN theo hướng tiếp tục tăng cường công khai, minh bạch trong quá trình huy động vốn trái phiếu. Điểm mới của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP là quy định về việc thiết lập chuyên trang thông tin về TPDN tại Sở Giao dịch chứng khoán để cung cấp thông tin về TPDN cho nhà đầu tư, DN phát hành, cơ quan quản lý, đồng thời yêu cầu DN phát hành phải thực hiện chế độ công bố thông tin đầy đủ khi phát hành trái phiếu như thông lệ quốc tế.
Năm 2020, thị trường TPDN, đặc biệt là kênh phát hành riêng lẻ tăng trưởng đột biến do có sự dịch chuyển vốn huy động từ kênh vay vốn ngân hàng sang phát hành trái phiếu trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng giảm. Trong năm này, Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về chào bán và giao dịch TPDN riêng lẻ, bổ sung quy định, đối tượng mua TPRL phải là nhà đầu tư chuyên nghiệp. Tại Nghị định 153, Chính phủ đã quy định, trách nhiệm của nhà đầu tư là tiếp cận đầy đủ nội dung công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành; hiểu rõ điều kiện, điều khoản trái phiếu và các cam kết khác của doanh nghiệp phát hành trước khi quyết định mua và giao dịch trái phiếu. Đặc biệt, phải: “Tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu các rủi ro phát sinh trong việc đầu tư và giao dịch trái phiếu. Nhà nước không đảm bảo việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn và các quyền khác cho nhà đầu tư mua trái phiếu” (Điều 8, Nghị định số 153).
ThS. Phạm Văn Hiếu cho biết, quan điểm của Việt Nam là phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để hỗ trợ các loại hình doanh nghiệp huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, giảm bớt sự phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng. Nhìn vào lộ trình chính sách từ năm 2006 đến nay cũng như số vốn các doanh nghiệp huy động được từ kênh trái phiếu có thể thấy, chính sách đã mở đường và được các doanh nghiệp “bước đi mạnh mẽ” khi chủ động huy động vốn bằng trái phiếu, góp phần không nhỏ giảm gánh nặng vay tín dụng.
Theo thống kê, tổng khối lượng trái phiếu phát hành trong giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 1.259,2 nghìn tỷ đồng, bình quân 251,8 nghìn tỷ đồng/năm, gấp trên 9 lần giai đoạn 2011-2015; trong đó, thị trường TPDN riêng lẻ chiếm đại đa số (93,5%). Năm 2021, doanh nghiệp Việt Nam lập kỷ lục mới khi phát hành 723 nghìn tỷ đồng TPDN, trong đó, phát hành riêng lẻ chiếm 91%, tức 650.000 tỷ đồng.
Pháp lý phải đi giữa lằn ranh tạo cơ hội và giảm thiểu rủi ro
Chủ tịch Vietinbank Capital Khổng Phan Đức
Nhà quản lý cần chấp nhận tính chất thỏa ước dân sự của nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Để tái thiết kế lại luồng đầu tư chảy vào trái phiếu riêng lẻ, cần đề cao vai trò chuyên nghiệp trong việc ra quyết định đầu tư, chứ không phải ở tính chuyên nghiệp hình thức của nhà đầu tư cá nhân.
|
Ngay từ khi sơ khởi, năm 2006, nền tảng pháp lý đã tạo không gian chủ động gọi vốn cho doanh nghiệp qua phát hành TPRL bằng quy định, chủ thể phê duyệt phương án phát hành thuộc về nội bộ doanh nghiệp (tùy quy mô sẽ do Đại hội đồng cổ đông hoặc HĐQT quyết định). Theo thời gian, các văn bản (cấp Nghị định) điều tiết về phát hành TPRL có sự sửa đổi, bổ sung theo hướng nâng dần quy chuẩn minh bạch và quy định rõ hơn trách nhiệm của các chủ thể tham gia thị trường, cụ thể là vai trò của doanh nghiệp phát hành, nhà tư vấn, nhà đầu tư, Sở GDCK, của UBCK, của Bộ Tài chính, NHNN. Tại văn bản mới nhất, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, doanh nghiệp muốn phát hành TPRL cũng chỉ phải thực hiện các thủ tục theo hướng dẫn và công bố thông tin đến Sở GDCK trước khi phát hành 1 ngày.
Tuy nhiên, điểm bất thường của thị trường Việt Nam là doanh nghiệp tận dụng tích cực “cửa” gọi vốn bằng TPRL và nhà đầu tư cá nhân đổ tiền vào công cụ này quá nhiều khiến rủi ro trở nên nóng bỏng. Năm 2021, Bộ Tài chính không chỉ một lần lên tiếng cảnh báo nhà đầu tư. Trước thực tế trên 50% trái phiếu riêng lẻ không có tài sản đảm bảo, trong các cảnh báo của mình, Bộ Tài chính khuyến nghị nhà đầu tư phải hết sức thận trọng, đánh giá kỹ về các rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu. Bộ Tài chính thậm chí “nói thẳng” rằng: “Trên thị trường có trường hợp doanh nghiệp phát hành TPDN với khối lượng lớn trong khi vốn chủ sở hữu nhỏ, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh lỗ qua các năm”…
Ở vai trò của mình, Bộ Tài chính đã công khai cảnh báo nhà đầu tư, chứ cũng không chặn việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp bằng một giải pháp hành chính. Lý do, thị trường TPRL ở Việt Nam thuận theo nguyên tắc: trao quyền chủ động gọi vốn cho DN, còn nhà đầu tư phải tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp âm ỉ cả năm nay là điều ai cũng biết. Tuy nhiên, vụ việc tại Tân Hoàng Minh bung vỡ đang tạo sức ép cho cơ quan quản lý phải tiếp tục điều chỉnh khung pháp lý và phải có phương án tổ chức thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng chuyên nghiệp, trở thành một cấu phần lành mạnh trên con đường xây dựng thị trường vốn Việt Nam.
Một nhà tư vấn 20 năm trong nghề cho rằng, thông lệ quốc tế không có thị trường nào quản chặt kênh TPRL, nhưng để giữ an toàn, nhà quản lý nên nâng dần tiêu chí nhà đầu tư mua TPRL. Hiện nay, Nghị định 153/2020/NĐ-CP đã bổ sung quy định chỉ có nhà đầu tư chuyên nghiệp được mua trái phiếu PHRL, nhưng quy định này còn thấp. Theo đó, nên nâng mức nhà đầu tư chuyên nghiệp phải là nhà đầu tư tổ chức để có đủ năng lực thẩm định khi quyết định mua TPRL. Nếu các tổ chức mua sơ cấp và có giao dịch lại trên thị trường thứ cấp thì cũng an toàn hơn cho nhà đầu tư. Cùng với đó, chuyên gia này cho rằng, quy định pháp lý nên buộc các doanh nghiệp thuê bên thứ ba định mức tín nhiệm cho chính doanh nghiệp và cho công cụ TPRL từ khi chuẩn bị phát hành cho đến cuối vòng đời của sản phẩm. Tổ chức định mức tín nhiệm, trong nước hoặc thuê từ quốc tế, sẽ giúp tăng tính minh bạch, chuyên nghiệp của kênh TPRL và giúp nhà đầu tư có công cụ khách quan tham khảo trước quyết định mua trái phiếu.
Ở góc nhìn của nhà quản trị quỹ, Chủ tịch Vietinbank Capital Khổng Phan Đức nghiêng về quan điểm, nhà quản lý cần chấp nhận tính chất thỏa ước dân sự của nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Để tái thiết kế lại luồng đầu tư chảy vào trái phiếu riêng lẻ, cần đề cao vai trò chuyên nghiệp trong việc ra quyết định đầu tư, chứ không phải ở tính chuyên nghiệp hình thức của nhà đầu tư cá nhân. “Hãy để cơ chế thị trường trả lời vì nhu cầu đầu tư tài sản rủi ro, rủi ro cao là hiện hữu của thị trường và là nhu cầu chính đáng của DN khi triển khai nghiệp vụ kinh doanh rủi ro, lãi suất chính lại đại diện cho mức bù rủi ro này”. Ông Khổng Phan Đức nhận định và khuyến nghị, quy định pháp lý nên lấy mục đích khơi thông nguồn lực xã hội để phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế đất nước là cao nhất.
Tương lai thị trường trái phiếu riêng lẻ ra sao?
Việc nhà quản lý hủy 9 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ của 3 công ty con chưa đại chúng thuộc Tân Hoàng Minh thu hút sự quan tâm rất lớn của dư luận
|
Dự báo về thi trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2022, Công ty Chứng khoán lớn nhất thị trường SSI cho rằng, vẫn có khả năng tăng trưởng tốt do cung cầu duy trì ở mức cao. Nhu cầu phát hành để đảm bảo vòng quay vốn của các doanh nghiệp khá cao, cùng với hoạt động sản xuất kinh doanh được kỳ vọng sẽ sôi động hơn 2021 khi nền kinh tế đang mở cửa trở lại sau đại dịch, là những lý do khiến nguồn cung TPDN dự kiến vẫn rất dồi dào.
FiinGroup thì dự báo, kênh trái phiếu doanh nghiệp đang và sẽ đóng vai trò rất lớn về huy động vốn trung và dài hạn cho sự phát triển của DN và nền kinh tế. Giá trị TPDN huy động được trong năm 2021 đã vượt xa giá trị huy động vốn cổ phần từ thị trường cổ phiếu và tiệm cận tới giá trị cho vay mới trung dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Nhu cầu vốn trung và dài hạn có xu hướng tập trung vào các nhóm ngành như bất động sản, xây dựng, điện hay vật liệu xây dựng và sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới.
Cũng theo FiinGroup, mức độ tham gia vào thị trường TPDN của nhà đầu tư cá nhân ngày càng lớn do sức hấp dẫn bởi lãi suất trái phiếu. Dự báo TPDN vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn và ổn định trong dài hạn, nhưng trong nhiều báo cáo về thị trường, FiinGroup đã lưu ý nhà đầu tư những điểm phải làm để tự bảo vệ mình trước sự hấp dẫn của lãi suất. Theo đó, điểm quan trọng nhất nhà đầu tư cần nhớ, năng lực tín dụng của tổ chức phát hành mới là yếu tố tiên quyết trong việc đánh giá khả năng trả nợ, đáp ứng nghĩa vụ tài chính của tổ chức phát hành.
Sở dĩ các doanh nghiệp ưa thích hình thức phát hành TPRL bởi thủ tục nhanh gọn hơn rất nhiều so với phát hành đại chúng. Kể từ năm 2006 đến nay, khung pháp lý đã trao quyền chủ động gọi vốn cho doanh nghiệp bằng TPRL nên vai trò của của cơ quan quản lý chủ yếu ở việc tổng hợp thông tin phát hành, giám sát việc công bố thông tin của doanh nghiệp và sắp tới là tổ chức giao dịch TPRL (việc này chưa được thực hiện tại Sở GDCK)… Trường hợp phát hiện có sai phạm trong việc công bố thông tin, báo cáo và giao dịch TPRL của doanh nghiệp thì Sở GDCK báo cáo UBCK, UBCK trên cơ sở báo cáo giám sát của Sở GDCK, tiếp nhận và xử lý các vi phạm trong hoạt động chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường theo quy định.
Tuy nhiên, những thay đổi về quy định pháp lý khi Bộ Tài chính sửa Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, có thể tác động mạnh đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới đây.
Theo SSI, dự thảo sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ, ngoài việc quy định chi tiết hơn về trách nhiệm công bố thông tin, hoạt động lưu ký tập trung, điều kiện đăng ký/thay đổi/hủy bỏ giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán…, còn đưa ra một số điểm sửa đổi bổ sung quan trọng, có thể tác động mạnh đến thị trường TPDN. Chẳng hạn, doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để góp vốn dưới mọi hình thức, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn/Trường hợp phát hiện doanh nghiệp phát hành sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu không đúng mục đích tại phương án phát hành trái phiếu hoặc cam kết với NĐT thì NĐT yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu mua lại trái phiếu trước hạn/Yêu cầu có xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu và trái phiếu phát hành...
Các dự kiến sửa như trên nếu có hiệu lực sẽ giảm bớt đáng kể cơ hội huy động vốn trái phiếu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc siết cứng quy định về mục đích phát hành với dòng vốn trái phiếu (thường dài 3-5 năm) cũng có thể khiến doanh nghiệp phải cân nhắc lại về kênh gọi vốn này…
Phương án tổ chức thị trường giao dịch TPRL tại Sở GDCK Hà Nội đang được cân nhắc theo 2 hướng
|
Về phía Bộ Tài chính, tìm hiểu của người viết cho thấy, Bộ đang trong tiến trình sửa đổi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP. Cùng với đó, phương án tổ chức thị trường giao dịch TPRL đang được cân nhắc theo 2 hướng. Thứ nhất, bắt buộc TPDN phát hành riêng lẻ của các doanh nghiệp đáp ứng điều kiện phải đăng ký giao dịch tập trung theo mô hình do Sở GDCK đề xuất. Thứ hai, khuyến khích TPDN phát hành riêng lẻ của công ty đại chúng và công ty không đại chúng đăng ký, lưu ký tập trung tại VSD và giao dịch tại Sở GDCK, việc tổ chức giao dịch có thể được quy định ở cấp Thông tư.
Trên thị trường quốc tế, theo thông lệ chung, TPDN phát hành ra công chúng được niêm yết và giao dịch như cổ phiếu trên Sở GDCK, còn đối với TPDN phát hành riêng lẻ thì bên cạnh giao dịch trên thị trường OTC truyền thống, một số Sở GDCK đã tổ chức thị trường giao dịch tập trung, được gọi là thị trường OTC có quản lý. Tất cả các giao dịch trên thị trường OTC, thành viên giao dịch đều phải thực hiện báo cáo về Sở GDCK hoặc Hiệp hội trái phiếu sau một khoảng thời gian.
Đối với thị trường OTC truyền thống, đầu mối thông tin về TPRL tại mỗi thị trường lại quy định khác nhau. Tại Nhật Bản, đầu mối là Sở GDCK, tại Hàn Quốc là Hiệp hội Chứng khoán, tại Malaysia là Ngân hàng Trung ương… Đối với thị trường OTC được quản lý, mô hình đáng tham khảo cho Việt Nam là SGX pro của Singapore (dành cho nhà đầu tư tổ chức) hay hệ thống giao dịch tự doanh trái phiếu của Nhật Bản. Đặc điểm của thị trường được quản lý tại Sở là minh bạch hơn so với thị trường OTC truyền thống, do giá mua, bán được công bố công khai với các thành viên giao dịch và nhà đầu tư.
Tại Việt Nam, hầu hết trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đang được đăng ký, lưu ký ở các thành viên lưu ký (công ty chứng khoán, chiếm trên 98%), phần đăng ký, lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam mới chiếm chưa đầy 2% quy mô thị trường. Do chưa có hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp tập trung nên các giao dịch TPDN riêng lẻ thực hiện qua hình thức giao dịch thỏa thuận ngoài sàn, cụ thể là tại các công ty chứng khoán. Do chưa có hệ thống chuẩn hóa, nên các công ty chứng khoán mỗi nơi làm mỗi kiểu, cũng là một loại rủi ro tiềm ẩn trên thị trường.
Tương lai thị trường TPRL ra sao và cách thức nào để tổ chức thị trường này sao cho vừa tạo cơ hội cho các doanh nghiệp chủ động gọi vốn, vừa giữ được sự minh bạch, an toàn và kỷ cương thị trường? Những câu hỏi này đang và đáng đặt lên vai các cơ quan quản lý.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, TTCK cũng phải phát triển liên tục và an toàn
Nhìn lại 22 năm đầu tiên hoạt động, TTCK Việt Nam đã đi qua rất nhiều thăng trầm, có những giai đoạn để lại những bài học đắt giá, như học phí phải trả trên con đường xây dựng thị trường vốn trở thành kênh đầu tư, kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Chia sẻ trong cuộc tọa đàm với Câu lạc bộ Nhà báo chứng khoán về tương lai TTCK năm 2022 và xa hơn, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi khẳng định, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhiệm vụ của nhà quản lý vẫn luôn là phải phát triển thị trường liên tục, an toàn, ổn định và bền vững. “Với tinh thần trách nhiệm này, chúng ta có quyền kỳ vọng và tin tưởng, thị trường sẽ tiếp tục công khai, minh bạch và minh bạch hơn nữa để đạt các mục tiêu dài hạn”, Thứ trưởng nói.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi
|
Tường Vi
Kinh tế và Dự báo
|