Quốc hội đồng ý nới trần ODA 60.000 tỷ
Quốc hội cho phép tăng mức trần nguồn vốn nước ngoài lên tối đa 360.000 tỷ đồng trên nguyên tắc điều chỉnh giảm tương ứng nguồn vốn vay trong nước...
Kết quả thông qua nghị quyết điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
|
Chỉ có 12 vị không tán thành và 5 vị không biểu quyết, sáng 12/11 Quốc hội đã thông qua nghị quyết điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Theo đó, Quốc hội đồng ý điều chỉnh tăng tổng mức vốn nước ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 từ 300.000 tỷ đồng lên tối đa 360.000 tỷ đồng, đồng thời điều chỉnh giảm tương ứng vốn vay trong nước để đáp ứng yêu cầu giải ngân đối với những dự án sử dụng vốn nước ngoài.
Báo cáo trước khi Quốc hội bấm nút, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải cho biết, có ý kiến đề nghị giải trình khả năng huy động vốn và tác động ảnh hưởng đến bội chi và nợ công của việc tăng mức trần ODA.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải trình, theo quy định tại Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, mức vốn nước ngoài là 300.000 tỷ đồng. Trong thực tế triển khai thực hiện thời gian qua, để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ đã ký kết các hiệp định vay vốn ODA với tổng số vốn cần bố trí để triển khai thực hiện theo cam kết với nhà tài trợ vượt mức trần nêu trên nhưng chưa có trong danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Do vậy, việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, tạo điều kiện để triển khai, thực hiện các dự án vay vốn ODA đã có chủ trương đầu tư, đã được ký kết nhưng chưa có trong danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn là cần thiết, tranh thủ nguồn lực nước ngoài, đảm bảo cam kết với nhà tài trợ.
Tuy nhiên, nhằm bảo đảm kiểm soát chỉ tiêu nợ công và bội chi ngân sách nhà nước không vượt mục tiêu đã được Quốc hội thông qua, cần phải giữ mức trần 2.000.000 tỷ đồng của kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được Quốc hội quyết định.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo xây dựng nghị quyết theo hướng trình Quốc hội cho phép tăng mức trần nguồn vốn nước ngoài lên tối đa 360.000 tỷ đồng trên nguyên tắc điều chỉnh giảm tương ứng nguồn vốn vay trong nước.
Quốc hội cũng cho phép sử dụng nguồn dự phòng chung của kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trên cơ sở bảo đảm khả năng cân đối vốn đầu tư của ngân sách nhà nước hằng năm và giữ mức trần đầu tư công 2.000.000 tỷ đồng (không bao gồm nguồn tăng chi đầu tư phát triển do tăng thu ngân sách địa phương và thay đổi cơ chế đối với nguồn vốn để lại đầu tư cho Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội được đưa vào cân đối trong ngân sách nhà nước từ năm 2019.
Chủ nhiệm Nguyễn Đức Hải báo cáo, sau 2 phiên thảo luận, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã lấy phiếu xin ý kiến các đại biểu Quốc hội về thẩm quyền quyết định danh mục các dự án sử dụng nguồn dự phòng chung của Kế hoạch đầu công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Kết quả, nhiều ý kiến đề nghị sử dụng nguồn dự phòng chung của kế hoạch đầu tư công trung hạn để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển. Một số ý kiến đề nghị chưa sử dụng nguồn dự phòng chung vì thu ngân sách trung ương không đạt kế hoạch, không cân đối được nguồn vốn để phân bổ kế hoạch đầu tư công trung hạn sẽ dẫn đến tình trạng dở dang, dàn trải, xin-cho.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, trong bối cảnh nguồn vốn dành cho đầu tư công còn hạn hẹp, thấp hơn nhiều so với nhu cầu đầu tư thực tế, việc sử dụng nguồn dự phòng chung trong phạm vi mức tối đa là 2 triệu tỷ đồng là cần thiết. Việc này góp phần kịp thời bổ sung nguồn vốn để khắc phục tình trạng nhiều dự án có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn dở dang, chậm tiến độ do thiếu vốn.
Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc của nghị quyết 26 năm 2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về thứ tự ưu tiên sử dụng nguồn vốn dự phòng chung là tập trung cho các dự án đã có trong danh mục đầu tư công trung hạn đang thực hiện dở dang, thiếu vốn nhằm đáp ứng tiến độ đầu tư, hoàn thành, đưa vào sử dụng, tránh lãng phí, dàn trải trong đầu tư.
Tán thành quan điểm này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cho phép sử dụng nguồn dự phòng chung như quy định tại dự thảo nghị quyết để bổ sung kịp thời nguồn lực cho đầu tư trên cơ sở đảm bảo cân đối ngân sách, giữ mức chỉ tiêu bội chi và chỉ tiêu an toàn nợ công đã được Quốc hội quyết định.
Với việc Chính phủ đề xuất phương án sử dụng nguồn vốn dự phòng còn lại, kết quả xin ý kiến đại biểu thể hiện, có 348 trên tổng số 429 phiếu thu nêu quan điểm tán thành để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh mục các dự án sử dụng nguồn dự phòng, chỉ 81 phiếu yêu cầu phải trình Quốc hội quyết tại kỳ họp sau. Kết quả biểu quyết riêng điều này đa số chọn phương án 1.
Báo cáo giải trình của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đề cập ý kiến đề nghị bố trí vốn để trả nợ của ngân sách Trung ương đối với các dự án PPP đã cam kết. Có ý kiến đề nghị cân nhắc ưu tiên cho 11 dự án PPP thuộc dự án đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông trong trường hợp không huy động được.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội báo cáo, hiện tại ngân sách Trung ương đang nợ tiền đền bù, giải phóng mặt bằng, chưa thanh toán theo tiến độ cam kết với một số dự án PPP do ngân sách có nhiều khó khăn, chưa bố trí được nguồn hoàn trả. Do đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc ưu tiên trả nợ cho các nhà đầu tư theo đúng cam kết.
Với dự án cao tốc Bắc - Nam, Chủ nhiệm Uy ban Tài chính Ngân sách cho biết, năm 2017, Quốc hội đã quyết định bố trí 55.000 tỷ đồng cho các dự án thành phần của cao tốc này. Trong trường hợp đấu thầu huy động, lựa chọn nhà đầu tư khó khăn, các cơ quan cần báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét sau. Vậy nên nội dung này không được đưa vào nghị quyết điều chỉnh vốn đầu tư công trung hạn.
Tại nghị quyết, Quốc hội Giao Chính phủ rà soát, hoàn chỉnh các thủ tục, điều kiện phân bổ vốn cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam; các dự án đường sắt đô thị của Thành phố Hà Nội và Tp.HCM trình Quốc hội xem xét, quyết định. Chưa phân bổ nguồn vốn nước ngoài cho Tổng công ty Đường cao tốc Việt Nam, Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam.
NGUYÊN VŨ
VNECONOMY
|