PMI tháng 3: Các chỉ tiêu lĩnh vực sản xuất tăng yếu hơn, đặc biệt là sản lượng
Mặc dù vẫn còn tăng trưởng trong tháng 3, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam có các chỉ tiêu tăng trưởng yếu hơn, đặc biệt là về sản lượng. Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh nhờ lĩnh vực xuất khẩu, từ đó dẫn đến tình trạng lạc quan về triển vọng tăng sản lượng trong tương lai gần.
Dữ liệu thu thập từ ngày 12-21/3 cho thấy các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam (VN) tiếp tục cải thiện vào cuối quý 1/2018 mặc dù tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với tháng 2. Sản lượng và việc làm chỉ tăng khiêm tốn trong tháng, trong khi số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh nhờ xuất khẩu.
Cụ thể, chỉ số Nhà quản trị Mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) toàn phần lĩnh vực sản xuất Việt Nam của Nikkei – một chỉ số tổng hợp đo lường kết quả hoạt động của ngành sản xuất – đã giảm xuống 51.6 điểm trong tháng 3 so với 53.5 điểm trong tháng 2 (mức cao của 10 tháng). Kết quả chỉ số cho thấy sức khỏe của lĩnh vực sản xuất đã cải thiện ở mức vừa phải, và đây là mức cải thiện yếu nhất kể từ tháng 11/2017. Các điều kiện kinh doanh đã cải thiện hơn trong suốt 28 tháng qua.
Ở những nơi sản lượng tăng, nguyên nhân chủ yếu do số lượng đơn đặt hàng mới tăng. Tốc độ tăng số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lai, nhưng vẫn còn mạnh khi có các báo cáo cho thấy nhu cầu khách hàng đã cải thiện. Tổng số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhờ số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài tăng nhanh hơn, và đây là mức tăng đáng kể nhất kể từ tháng 10/2017.
Số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn đã giúp các công ty giải quyết được lượng công việc chưa thực hiện trong tháng 3. Tốc độ giảm gia tăng thành mức mạnh nhất trong 3 năm.
Các nhà sản xuất đã tăng số lượng việc làm trong 24 tháng liên tiếp để đáp ứng nhu cầu sản lượng tăng. Tuy nhiên, tốc độ tạo việc làm đã chậm lại thành mức thấp của 7 tháng.
Mặc dù giá cả đầu vào tiếp tục tăng mạnh trong tháng 3, tốc độ tăng giá đã chậm lại đáng kể so với tháng 2 và là tốc độ chậm nhất kể từ tháng 8/2017.
Ở những nơi chi phí đầu vào tăng, nguyên nhân được cho là do giá cả thị trường tăng. Giá cả đầu ra cũng tăng chậm lại vì có áp lực cạnh tranh. Giá bán hàng đã tăng trong suốt 7 tháng qua.
Thời gian giao hàng của nhà cung cấp bị kéo dài thêm một chút, nguyên nhân được cho là do tình trạng khan hiếm nguồn nguyên vật liệu và sự chậm trễ trong khâu chuyển hàng.
Phù hợp với tình trạng của sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới, hoạt động mua hàng đã tăng yếu hơn trong tháng 3. Tuy nhiên, mức tăng vẫn là mạnh và đã kéo dài thời kỳ tăng trưởng hiện nay thành 28 tháng.
Lượng hàng tồn kho hầu như giữ ổn định trong tháng. Tồn kho hàng mua chỉ thay đổi một chút sau 3 tháng tăng, trong khi tồn kho thành phẩm giữ ổn định sau 8 tháng giảm. Các thành viên nhóm khảo sát cho biết sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn dẫn đến sự thận trọng trong việc lưu kho hàng hóa.
Các nhà sản xuất đã rất lạc quan cho rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới, với mức độ lạc quan tăng trở lại sau khi đạt mức thấp của 8 tháng trong tháng 2. Hơn 55% số người trả lời khảo sát dự báo sản lượng sẽ tăng.
Bình luận về dữ liệu khảo sát PMI ngành sản xuất Việt Nam, Andrew Harker, Phó Giám đốc tai IHS Markit, công ty thu thập kết quả khảo sát, nói: “Mặc dù vẫn còn tăng trưởng trong tháng 3, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam có các chỉ tiêu tăng trưởng yếu hơn, đặc biệt là về sản lượng. Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh nhờ lĩnh vực xuất khẩu, từ đó dẫn đến tình trạng lạc quan về triển vọng tăng sản lượng trong tương lai gần. Các công ty cũng bớt lo lắng về lạm phát hơn khi chi phí đầu vào tăng chậm hơn nhiều so với tháng 2. Do đó, áp lực lạm phát có vẻ như đã đạt đỉnh ở thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới”.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies). Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất (manufacturing sector) được chia thành 8 mảng: kim loại (basic metals), hóa chất và nhựa (chemicals & plastics), điện và quang học (electrical & optical), thực phẩm và đồ uống (food & drink), kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering), dệt và may mặc (textiles & clothing), giấy và gỗ (timber & paper), vận chuyển (transport).
|
Phúc Minh
FILI
|