Thứ Sáu, 20/03/2015 15:42

Basel II tại Việt Nam: Từng bước tiệm cận với chuẩn quốc tế

Basel II tại Việt Nam hiện nay còn rất nhiều thách thức, hạn chế như: tiềm lực kinh tế, nguồn nhân lực, thể chế, cơ chế chính sách… cần rất nhiều thời gian học hỏi kinh nghiệm, thích ứng và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện tại Việt Nam.

Những ma trận phức tạp

NH Thanh toán quốc tế (BIS) vừa công bố báo cáo nghiên cứu mới nhất về kết quả thực hiện các quy định Basel III do Ủy ban Basel tiến hành. Theo đó, trên dữ liệu cập nhật đến ngày 30/6/2014, kết quả nghiên cứu cho thấy, các quy định cuối cùng của Basel III đã hoàn toàn có hiệu lực. Tất cả các NH lớn trên thế giới đều đã đáp ứng yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro theo quy định Basel III…

Như vậy, nhiều NH trên thế giới không những đã áp dụng Basel II mà còn sắp thực hiện triệt để Basel III. Tất nhiên, đó là những NH lớn, hàng đầu trên thế giới, nhưng cho thấy việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro là đòi hỏi tất yếu. Chính vì thế, sức ép trong việc tuân thủ các quy định của Basel đối với những NH các nước, trong đó có hệ thống TCTD Việt Nam càng lớn.

Các TCTD không thể quá chậm trễ thực hiện quy định của Basel II

Tất nhiên, ngay cả các chuyên gia của Basel cũng thừa nhận, mỗi quốc gia, tùy từng điều kiện của mình có thể thực hiện Basel theo từng lộ trình. Nhưng không vì thế chúng ta có thể quá chậm trễ trong thực hiện các quy định của Basel.

Như TBNH đã từng đề cập, hiện mới có một số NH Việt Nam thí điểm thực hiện Basel II. Ông Scott Lam, Trưởng bộ phận đo lường và quản lý rủi ro của Tập đoàn Standard Chartered Bank (SCB) cho rằng, các phương pháp tính toán rủi ro tín dụng của Basel II đã mang lại những phương pháp mang tính tùy biến rất cao để đo lường độ nhạy cảm rủi ro của mỗi NH.

Trong đó, biện pháp xếp hạng tín dụng nội bộ đã tính toán được độ nhạy cảm tín dụng một cách tốt nhất, vì đã đưa vào những chỉ số về lỗ, rủi ro vỡ nợ, những tổn thất mà rủi ro vỡ nợ xảy ra.

Đây là những chỉ số mà qua đó tính toán được rủi ro đầy đủ hơn. Việc xây dựng mô hình quản trị nội bộ là việc làm vô cùng cần thiết đối với NH trong ngăn ngừa rủi ro. Đầu tiên, chúng ta cần lên kế hoạch ngắn, thảo luận xem yêu cầu là gì. Có 3 chỉ số cần vạch ra đó là PD (xác suất khách hàng không trả được nợ), LRD (rủi ro vỡ nợ) và LGD (tổn thất vỡ nợ).

Những thành viên trong nhóm xây dựng mô hình này đòi hỏi các chuyên gia có kinh nghiệm về tính toán định lượng dựa trên cơ sở dữ liệu, chọn dữ liệu mang tính đại diện nhất cho phân khúc tài sản mà họ quản lý. Mục đích của mô hình này là giúp mỗi NH định giá được khoản vay.

Ông Scott Lam cho biết thêm: “Để tính toán mô hình xác suất không trả được nợ có ba trụ cột chính. Thứ nhất gồm: tài chính, quy mô của công ty và lượng vốn, tình trạng thanh khoản, khả năng sinh lời, độ hiệu quả. Thứ hai là tính toán về chất lượng tài sản, tính đa dạng của sản phẩm, quản lý chất lượng cũng như các yếu tố về quản trị rủi ro. Yếu tố nữa là tín hiệu mang tính cảnh báo. Đây là yếu tố cần để ý kỹ lưỡng vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc chúng ta đánh giá như thế nào”.

Có thể thấy rằng, để một mô hình được công nhận không chỉ dựa vào việc có quy trình kiểm tra nội bộ mà cần đáp ứng yêu cầu của nhà quản lý, cần thiết phải có một nhóm xác thực xem mô hình này có chạy được không, phân tích xem những dữ liệu có mang tính đại diện hay không.

Theo kinh nghiệm của SCB, NH này có Uỷ ban đánh giá mô hình gồm những nhà lãnh đạo của NH. Khi mô hình đã được Uỷ ban này phê chuẩn sẽ được trình cơ quan quản lý (ví dụ như NHNN) để thông báo với cơ quan quản lý lý do áp dụng mô hình này. Tiếp sau đó cho chạy thử nghiệm xem mức độ ăn nhập của hệ thống với quy trình hàng ngày của NH.

Biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng được Scott Lam đề cập tới chia làm 2 nhóm: dựa trên tài sản đảm bảo, đòi hỏi cần một nhóm chuyên gia pháp lý giàu kinh nghiệm để rà soát các văn bản pháp quy và về tính xác thực của tài sản, chú trọng đến chỉ số LGD; biện pháp thứ hai không dựa trên tài sản bảo đảm, đó là dựa trên bảo lãnh, có bên thứ ba đứng ra chịu trách nhiệm chi trả trong trường hợp người đi vay vỡ nợ, tránh trường hợp phải ra toà kiện tụng để thu hồi tài sản.

Con người là quyết định

Là một trong những NH triển khai thành công Basel II, kinh nghiệm mà SCB có được trong việc thu thập, làm sạch, làm giàu và phân tích dữ liệu, thu hẹp khoảng cách là việc chú trọng xác định được thông tin quan trọng, cũng như việc khớp nối và đối chiếu dữ liệu đưa vào hệ thống.

Ông Peter Cheng, Trưởng bộ phận báo cáo dữ liệu và các giải pháp Basel của SCB cho hay, các NH nên có các chuyên gia phân tích về lượng, dữ liệu, khớp nối đưa vào mô hình, từ đó có thể tiên đoán được hành xử của khách hàng đối với mỗi trường hợp cụ thể.

Bên cạnh đó, ông Cheng cũng nhấn mạnh việc cần có những bộ công cụ giúp chuẩn hoá dữ liệu, kiến thức thực tiễn và thiết kế quy trình, mức độ linh hoạt trong hệ thống để có khả năng chỉnh sửa, nâng cấp lên Basel III khi tới thời điểm cần thiết.

Cũng theo chuyên gia của SCB, lộ trình tuân thủ theo Basel II tại Việt Nam cần rất nhiều yếu tố, trong đó nhân lực phải chuyên nghiệp, thông qua quá trình học hỏi, đào tạo lâu dài, không có một “từ điển bách khoa” nào cho việc triển khai Basel II “từ A đến Z” mà phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng NH ở mỗi quốc gia cụ thể. Giám đốc phụ trách công nghệ thông tin, phụ trách dữ liệu phải được đào tạo chuẩn mực để có thể bao quát, kiểm soát tình hình chung, đề ra việc ứng dụng và tuân thủ công nghệ đối với toàn bộ nhân viên của NH.

Việc đào tạo cho nhân viên của các phòng, ban, bộ phận trong NH nhất thiết nên tiến hành hàng năm, đáp ứng yêu cầu đề ra của Basel. Tất cả nhân viên trong NH đều phải biết Basel II là gì, vận hành ra sao. Việc truyền thông Basel II cũng như đào tạo, cần có biện pháp từ trên xuống dưới, xây dựng tài liệu cụ thể để chia sẻ kiến thức giữa các phòng, ban, đơn vị trong NH.    

Triển khai thực hiện Basel II là một trong những nội dung quan trọng, trọng yếu của Đề án cơ cấu lại hệ thống NH đã được Chính phủ phê duyệt, Thống đốc NHNN cũng đã đưa ra lộ trình cụ thể để triển khai hoạt động này trong toàn hệ thống. Basel II tại Việt Nam hiện nay còn rất nhiều thách thức, hạn chế như: tiềm lực kinh tế, nguồn nhân lực, thể chế, cơ chế chính sách… cần rất nhiều thời gian học hỏi kinh nghiệm, thích ứng và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện tại Việt Nam.

Ông Đào Gia Hưng,Phó giám đốc Khối Quản trị Rủi ro (VPBank):

Triển khai Basel IIđòi hỏi nguồn lực lớn

Năng lực chất lượng cao về quản trị rủi ro đủ khả năng triển khai các yêu cầu của Basel II là một thách thức không nhỏ.

Thêm nữa, do phạm vi yêu cầu của Basel II rất rộng, nhiều dự án có thể cần triển khai đồng thời nên đòi hỏi NH cần đầu tư một nguồn lực nhân sự tương đối lớn để có thể triển khai hiệu quả, không gây ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của NH. Basel II cũng yêu cầu NH thực hiện các phương pháp đo lường rủi ro tiên tiến. Điều này đòi hỏi các NH cần chuẩn bị một nền tảng công nghệ thông tin và nền tảng dữ liệu tốt để phục vụ xây dựng những mô hình theo chuẩn mực Basel II.

VPBank được NHNN chỉ định sẽ thực hiện các phương pháp tiên tiến nhất của Basel II, việc chuẩn bị các nền tảng này sẽ là một thách thức lớn không chỉ với VPBank mà còn với nhiều NH khác.

Từ năm 2012, VPBank đã thành lập dự án Tiền Basel II với mục đích nghiên cứu và đặt những nền tảng đầu tiên. Đến năm 2013, VPBank đã hoàn thành việc lập kế hoạch và xây dựng Chiến lược rủi ro tổng thể theo chuẩn mực Basel II.

Theo đó, các nhiệm vụ thực hiện trong 3 năm tới đã được xác định rõ ràng cùng với các ước tính nguồn lực và tài chính cần có. Trong thời gian vừa qua, VPBank đã chủ động thực hiện trước nhiều công việc và do vậy hoàn toàn có khả năng đáp ứng các mốc quan trọng theo yêu cầu của NHNN.

Chúng tôi đã hoàn thành một số phần việc quan trọng: Triển khai cơ chế phê duyệt tín dụng tập trung; hoàn thiện cơ sở hạ tầng dữ liệu cho việc xây dựng các phương pháp xếp hạng tín dụng và phân loại rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng thêm các thẻ điểm (scorecard) cho các phân khúc khách hàng khác nhau; xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro tín dụng sớm; tăng cường hệ thống tái cấu trúc và thu hồi nợ của NH…

VPBank đã thành lập Ủy ban chỉ đạo và Bộ phận chuyên trách về quản lý và triển khai các dự án trọng điểm về Basel II. Kế hoạch triển khai Basel II của VPBank cũng đã dự kiến nguồn lực chi tiết cho từng hạng mục công việc bao gồm chi phí tài chính, chi phí nhân sự và thời gian thực hiện các hạng mục này.

Thực hiện Basel II là một công việc rất lớn, dài hạn và tốn nhiều nguồn lực, đặc biệt với các NH nằm trong nhóm được NHNN lựa chọn đi “tiên phong”. Do vậy, rất cần NHNN có các cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với nhóm 10 thí điểm thực hiện Basel II.

Bà Phạm Thị Trung Hà - Phó Tổng giám đốc phụ trách Khối Quản trị rủi ro (MB):

Tăng cường minh bạch, tăng lòng tin với khách hàng

Thực hiện kế hoạch áp dụng chuẩn mực vốn Basel của NHNN, tháng 7/2014, MB đã ký hợp đồng tư vấn với EY Singapore để phân tích thực trạng, xác định các việc cần triển khai và xây dựng lộ trình thu hẹp khoảng cách tại MB. Đến thời điểm hiện nay, MB cơ bản đã xác định rõ các công việc phải làm, lộ trình nhằm đạt được các yêu cầu của NHNN Việt Nam.

Theo đánh giá của MB, các NH nói chung sẽ gặp một số những khó khăn như sau: Thứ nhất, cùng với các tiêu chuẩn mới được áp dụng, các ứng xử của NH đối với khách hàng sẽ có sự khác biệt tùy mức độ rủi ro mà khách hàng này mang lại cho NH. Do đó, mức độ chấp nhận những đối xử khác biệt của các nhóm khách hàng sẽ là một khó khăn đối với các NH so với những gì các khách hàng đang chấp nhận hiện nay.

Thứ hai, các yêu cầu về thông tin khách hàng, thông tin về tài sản bảo đảm (bao gồm các biện pháp giảm thiểu rủi ro) phải phản ánh được chu kỳ của nền kinh tế, đặc tính hành vi đa số của khách hàng theo các phân khúc mà NH lựa chọn.

Vì vậy, thời gian lưu trữ các thông tin này theo yêu cầu của Basel phải tối thiểu từ 3 đến 5 năm, thông tin về các khoản nợ xấu phải từ 5 đến 7 năm sẽ là một thách thức không nhỏ trong điều kiện các NH mới bắt tay vào thu thập các thông tin một cách đầy đủ như theo yêu cầu. Khó khăn thứ ba là nhận thức về Basel II trong nội bộ NH cũng như các kiến thức cần thiết cho đội ngũ triển khai Basel II thiếu và chưa được đào tạo bài bản ở Việt Nam.

Việc triển khai áp dụng Basel II được xác định là một trong những giải pháp nhằm đảm bảo triển khai thành công chiến lược của MB trong hiện tại và tương lai giúp MB duy trì vị thế NH có hệ thống quản trị rủi ro tốt nhất. Basel II cho phép NH có thể xác định rõ các đối tượng khách hàng để có những ứng xử phù hợp nhất trên cơ sở rủi ro mà khách hàng đó mang lại.

Bên cạnh đó, việc triển khai Basel II cũng tăng cường sự minh bạch hơn nữa quản trị rủi ro trong NH. Các quy trình ICAAP được áp dụng tại NH sẽ đảm bảo NH có được năng lực phát hiện và cảnh báo sớm đối với những rủi ro trọng yếu, từ đó có được những giải pháp kinh doanh phù hợp để gia tăng giá trị NH theo các cam kết với cổ đông và người gửi tiền.

Việc kiểm soát tốt sẽ tăng được lòng tin của khách hàng cũng như các đối tác của MB. Các rủi ro được lượng hóa một cách đầy đủ, rõ ràng hơn thông qua các phương pháp đo lường được áp dụng thành công tại nhiều NH trên thế giới đã được thử nghiệm tại MB trong thời gian qua. Điều này đảm bảo cho MB có được những quyết định rõ ràng và nhanh chóng hơn trong ứng xử với các rủi ro phát sinh tại NH.

Minh Khuê thực hiện

Thảo Minh

thời báo ngân hàng

Các tin tức khác

>   Chính sách tỷ giá - đâu mới là mục tiêu thực sự? (20/03/2015)

>   Kiểm toán đề án tái cơ cấu ngân hàng, doanh nghiệp Nhà nước (20/03/2015)

>   Neo tỉ giá đang gây bất lợi cho xuất khẩu? (20/03/2015)

>   Đến lúc này phải dằn túi vài xấp đôla (20/03/2015)

>   Vàng yên, đô “chạy” vì sao? (19/03/2015)

>   Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi của Industrial Bank of Korea - Hà Nội là 140% (19/03/2015)

>   Nhân viên ngân hàng và công an phường phá cửa nhà dân xiết nợ (19/03/2015)

>   USD tăng vọt: Có nên rút tiền mua USD? (19/03/2015)

>   Lãi như ‘tín dụng đen’: Đua nhau cho vay chặt chém (19/03/2015)

>   Sẽ không cấp bảo lãnh Chính phủ đối với các tổ chức tài chính (18/03/2015)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật