Tái cơ cấu để đảm bảo an toàn nợ công
Chính phủ vừa có báo cáo đánh giá tổng thể về tình hình nợ công gửi đến Quốc hội. Mặc dù dư nợ công, nghĩa vụ trả nợ đang tăng nhanh, nhưng Chính phủ khẳng định, vẫn tiếp tục giữ mức trần nợ công đến năm 2020 ở ngưỡng cho phép. Song song với đó, Bộ Tài chính hiện đang thực hiện các giải pháp tích cực nhằm ổn định và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, góp phần giảm áp lực nợ công.
* TS Vũ Đình Ánh: Nợ công đang níu áo mỗi người dân
Tăng dần thời hạn phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp xử lý nợ công.
|
Giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước ngoài
Theo nhận định của Chính phủ, bên cạnh những tác động tích cực, công tác quản lý nợ công vẫn còn một số tồn tại, dẫn đến các ý kiến khác nhau về phạm vi của nợ công ở Việt Nam, mức độ bền vững nợ công gắn liền với đó là khác biệt về quan điểm cũng như cách thức xử lý phát sinh trong quá trình phân tích, đánh giá về tình hình nợ công trong thời gian qua.
|
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyết Tâm (TP.Hồ Chí Minh):
Thắt chặt chi tiêu công
Tôi nghĩ thực tế tình hình nợ công của quốc gia hiện nay rất đáng lo và phải được báo cáo một cách rõ ràng, minh bạch trước Quốc hội và với toàn dân. Đây không phải minh bạch để thấy con số nợ công quá khổng lồ rồi bi quan mà vấn đề là qua đó cho toàn dân biết rằng ngân khố của mình là như thế nào, phải thắt chặt chi tiêu ra sao để tránh lãng phí.
Tôi đề nghị Quốc hội nên yêu cầu Chính phủ báo cáo quá trình nợ công một cách đầy đủ, công khai và minh bạch. Đi liền với việc công khai nợ công cũng phải đưa ra hàng loạt các giải pháp, thắt chặt chi tiêu, tiết kiệm chi tiêu, chi tiêu công và chi tiêu của xã hội. Đã đến lúc phải “thắt lưng buộc bụng” bởi vì khi theo dõi các biểu đồ nợ công cũng như biểu đồ thu ngân sách, rồi bản cân đối ngân sách quốc gia thì hầu như báo cáo nào cũng nói là căng thẳng, cân đối khó khăn.
T.Thắng (ghi)
|
Mức dư nợ công giai đoạn 2010-2013, báo cáo của Chính phủ nêu rõ, chỉ tiêu nợ công so với GDP phù hợp với mục tiêu chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và trong giới hạn được Quốc hội cho phép (Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP). Nợ công cuối năm 2013 ở mức 1.942.098 tỷ đồng, bằng 54,2% GDP. Sở dĩ, con số này tăng so với báo cáo gửi đến Quốc hội vào trung tuần tháng 5-2014 (53,4% GDP) là do điều chỉnh tăng bội chi ngân sách năm 2012 và 2013 theo Nghị quyết của Quốc hội về phân bổ, sử dụng nguồn tăng bội chi NSNN và giảm chi NSTƯ năm 2013.
Về tình hình nợ Chính phủ, tổng số dư nợ của Chính phủ tính đến ngày 31-12-2013 ở mức 1.515.968 tỷ đồng, bằng 42,3% GDP, vẫn được duy trì trong giới hạn cho phép không quá 50% GDP (giới hạn trần về nợ Chính phủ đã được Quốc hội cho phép đến năm 2015 không quá 50% GDP).
Xét về cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước tăng lên (từ 40,3% năm 2010 lên 49,7% năm 2013), nước ngoài giảm (từ 59,7% xuống 50,3%), giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước ngoài (mục tiêu Chiến lược nợ công đến năm 2020, cơ cấu nợ nước ngoài của Chính phủ giảm xuống dưới 50%). Điều này thể hiện sự tăng trưởng mạnh mẽ ở thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước.
Chỉ tiêu trả nợ Chính phủ (không tính đảo nợ) so với thu NSNN hàng năm trong giới hạn cho phép và nằm trong giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế. Cụ thể, năm 2010 ở mức 14,7%; năm 2011 ở mức 15,5%; năm 2012 ở mức 14,6%; năm 2013 ở mức 15,2%). Ngoài việc ưu tiên bố trí NSNN để trả các khoản trả nợ vay của Chính phủ hàng năm, việc thành lập Quỹ tích luỹ trả nợ cũng có tác động tích cực trong việc tập hợp các nguồn thu từ các dự án cho vay lại, thu phí bảo lãnh để trả nợ, giảm bớt sự căng thẳng trong cân đối nguồn trả nợ từ NSNN, tăng cường vốn cho đầu tư phát triển và các nhu cầu chi tiêu khác của Chính phủ trong từng giai đoạn.
Mặc dù vậy, Chính phủ nhận định, dư nợ công hiện đang tăng nhanh (năm 2010/2009 tăng 27%; năm 2011/2010 tăng 24,8%; năm 2012/2011 tăng 18,4%; năm 2013/2012 tăng 17,9%). Ước năm 2014, chỉ số nợ công ở mức 60,3% GDP và dự kiến năm 2015 khoảng 64% GDP, sát với ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt. Theo phân tích của Chính phủ, nguyên nhân chủ yếu là do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế trong nước suy giảm nên thu NSNN khó khăn (chỉ đạt khoảng 95% mục tiêu phấn đấu 5 năm 2011-2015), Chính phủ phải thực hiện các gói kích cầu từ năm 2009 và gắn liền với đó là hàng loạt các chương trình miễn giảm thuế nhằm khôi phục sản xuất kinh doanh trong khi vẫn phải duy trì hàng loạt các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, việc gia tăng dư nợ công là do sức ép về nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, thúc đẩy gia tăng huy động vốn vay công; vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài cho các chương trình, dự án đầu tư gia tăng đáng kể, bội chi NSNN luôn duy trì ở mức cao làm tăng vay của Chính phủ… Do đó, việc nợ công đang tiến dần tới ngưỡng cần được chú ý và giám sát chặt chẽ.
Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ cũng có xu hướng gia tăng khá nhanh, thực tế trong năm 2013 do cân đối NSNN khó khăn nên đã phải bố trí dự toán chi trả nợ thấp hơn yêu cầu (chỉ đảm bảo đủ nguồn chi trả nghĩa vụ nợ nước ngoài và một phần nghĩa vụ nợ trong nước), phải phát hành đảo nợ một phần các khoản vay trong nước. Do vậy áp lực về vay mới để trả các khoản vay cũ trong nước là tương đối lớn.
Đảm bảo an toàn nợ công
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, để xử lý vấn đề nợ công hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo các cơ quan có liên quan triển khai một số biện pháp tái cơ cấu nợ công. Theo đó, từng bước chuyển từ cơ cấu vay ngắn hạn sang vay dài hạn, phát hành trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dài hơn. Cho đến cuối năm 2013, cơ cấu kỳ hạn phát hành vẫn tập trung vào các kỳ hạn từ 3 năm trở xuống, chiếm 79% tổng phát hành năm 2013. Điều đó dẫn đến nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trong vòng 2-3 năm là rất lớn, do đó cần phải có biện pháp xử lý phù hợp.
Để khắc phục vấn đề này, Bộ Tài chính đang triển khai Chiến lược phát triển thị trường trái phiếu tới năm 2020 với một nội dung quan trọng là tăng dần thời hạn phát hành trái phiếu Chính phủ. Kết quả, đến cuối tháng 9-2014 đã huy động được khoảng 210.198 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ trái phiếu có kỳ hạn ngắn hạn từ 3 năm trở xuống đã giảm đáng kể, chỉ còn 57% (năm 2013 là 79%) nhằm làm giảm dần các rủi ro về tái cấp vốn và thanh khoản đối với danh mục nợ trái phiếu Chính phủ.
Để tiếp tục tăng cường công tác quản lý nợ công, bảo đảm an toàn và an ninh tài chính quốc gia, trong thời gian tới Chính phủ tiếp tục giữ mức trần nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP và khống chế nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN hàng năm không quá 25% GDP.
Cùng với đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay theo hướng: Đối với các chương trình, dự án đang triển khai cần rà soát, loại bỏ các dự án không hiệu quả, phân kỳ đầu tư để tập trung vốn cho các dự án cần đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành đưa vào khai thác và sử dụng. Đối với các dự án bổ sung mới cần lựa chọn kỹ ngay từ đầu, thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, đánh giá, thẩm định chặt chẽ hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ, xác định rõ cơ chế tài chính cấp phát/cho vay lại ngay từ khi phê duyệt chủ trương đầu tư bằng nguồn vốn vay để đánh giá tác động lên nợ công.
Để giảm gánh nặng nợ, cần bám sát mục tiêu bội chi NSNN giảm dần, trong đó đến năm 2020 giảm xuống 4% GDP (tính cả trái phiếu Chính phủ). Trong quá trình thực hiện, trường hợp có tăng thu ngân sách, sẽ ưu tiên bố trí ngân sách để trả nợ nhằm giảm bội chi, qua đó giảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công. Nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN, bố trí dự toán và điều hành quản lý chi ngân sách chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính.
Phương án tiếp tục tái cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ cũng được đưa ra. Trong đó, tập trung vào việc thực hiện phương án tái cơ cấu nợ gốc trái phiếu quốc tế; cơ cấu lại các khoản cho vay lại/bảo lãnh Chính phủ đang gặp khó khăn; cải thiện cơ cấu nhà đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng nhà đầu tư có vốn dài hạn; xây dựng đường cong lãi suất chuẩn trái phiếu Chính phủ và tiếp tục phát triển các sản phẩm mới để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ.
Về cơ cấu nợ công, khoảng 50% là nợ nước ngoài với điều kiện vay cơ bản là ưu đãi với thời gian đáo hạn còn lại khoảng 15 năm; 50% còn lại là khoản vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn phần lớn nằm trong khoảng từ 2-5 năm.
Hiện nay, trên thế giới chưa có tiêu chí về phạm vi nợ công áp dụng chung cho các quốc gia. Phạm vi nợ công của phần lớn các nước bao gồm nợ Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Đối với Việt Nam, theo quy định của Luật Quản lý nợ công, nợ công đã bao gồm: Nợ Chính phủ; nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Hiện nay, các khoản nợ của DNNN được Chính phủ bảo lãnh, nợ vay về cho vay lại của Chính phủ đã được tính trong phạm vi nợ công. Các khoản vay nợ của DN không được tính trong nợ công bởi DN là người trực tiếp đi vay nợ để đầu tư và có nghĩa vụ trả nợ. DN phải tự chịu trách nhiệm trả nợ.
|
Minh Anh
hải quan
|