Gần 10% doanh nghiệp SME phải rút khỏi thị trường
Ngày 21/11, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức công bố “Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) Việt Nam 2011”, thông qua điều tra 2.500 doanh nghiệp tại 10 tỉnh, thành trong cả nước.
Ảnh minh họa
|
Đây là kết quả nghiên cứu điều tra doanh nghiệp SME lần thứ bảy được tiến hành ở Việt Nam với mục tiêu thu thập và phân tích số liệu đại diện của toàn bộ khu vực tư nhân, trình bày tổng quan các thông tin cơ bản từ cơ sở dữ liệu của năm 2011 có sự so sánh với năm 2009 để đánh giá sự thay đổi và phát triển của doanh nghiệp sau hai năm.
Yếu cả lực và thế
Bà Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Phó Viện trưởng CIEM cho biết, số liệu về doanh nghiệp điều tra đã được các nhà khoa học quan sát trong vòng 15 năm qua cho thấy khối doanh nghiệp nhỏ và vừa đang trở thành trung tâm đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Cụ thể, báo cáo của năm nay cho thấy tình hình kinh tế khó khăn ngày càng tăng cao từ 2009 đến 2011 đã khiến các doanh nghiệp SME phải giảm đầu tư mới từ mức 61% xuống còn 56%, tương tự nguồn vốn tín dụng cũng giảm từ mức 52% xuống 47 % trong 2 năm tương ứng.
Trước đó trong năm 2009, gần 12% doanh nghiệp tin tưởng rằng cuộc khủng hoảng đã tạo ra một số cơ hội cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn chính thức có khả năng hưởng lợi từ các lợi ích tiềm năng này. Song, trong năm 2011 chỉ có 5,6% doanh nghiệp cho rằng khủng hoảng toàn cầu đã mang lại động cơ tích cực cho điều kiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong số 2.508 doanh nghiệp được điều tra năm 2009 có đến 20% đã phải đóng cửa vào năm 2011, tỷ lệ thoát khỏi thị trường trung bình hàng năm của doanh nghiệp trong giai đoạn này là 9,7%.
Vấn đề về vốn và những khó khăn trong thị trường tín dụng được các doanh nghiệp xem như rào cản lớn nhất đối với sự phát triển của các doanh nghiệp SME tại Việt Nam. Năm 2011, khoảng 39% doanh nghiệp có tiếp cận hạn chế hoặc khó khăn đối với các khoản vay. Trong mối quan hệ tín dụng, số doanh nghiệp có những khoản vay không chính thức cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp có khoản vay chính thức.
Thêm vào đó, tình trạng hối lộ vẫn tiếp tục là vấn đề nhức nhối, có 38,3% doanh nghiệp cho biết có chi hối lộ trong năm 2011 so với con số của năm 2009 là 34,3%. Trong đó, 30% doanh nghiệp thực hiện các khoản thanh toán không chính thức để đối phó với các cơ quan thuế trong năm 2011 (năm 2009 là 26%).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các doanh nghiệp hối lộ không mở rộng lực lượng lao động của mình và sắc sắc xuất rời khỏi thị trường cao hơn 3% so với các doanh nghiệp không chi hối lộ.
Ra đi vì ... dậm chân tại chỗ
Bà Phạm Thị Thu Hằng, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, đáng báo động là tỷ lệ doanh nghiệp cải tiến sản phẩm có xu hướng giảm. Trong bối cảnh hiện nay, khi thị trường của các doanh nghiệp SME chủ yếu là thị trường nội địa và vấn nạn hàng nhập lậu vẫn còn nhức nhối thì việc cải tiến sản phẩm là vô cùng quan trọng.
“Nếu xu hướng này tiếp tục kéo dài thì rất có thể các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ phải sớm rút lui khỏi thị trường. Cụ thể, trong 9 tháng của năm 2012, hàng tồn kho đã trở thành vấn đề rất lớn và có trên 42.000 doanh nghiệp trong cả nước phải ngừng hoạt động và giải thể,” bà Hằng nói.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng đặt mối quan tâm đến yếu tố lao động, khoảng 60% doanh nghiệp SME đã giảm số lao động cố định của mình, tổng số lao động toàn thời gian của 1.999 doanh nghiệp đã giảm từ mức 28.174 người (2009) xuống còn 26.414 người (2011). Đáng chú ý, tỷ lệ lao động thường xuyên có hợp đồng chính thức chỉ chiếm 26,7%.
Theo giáo sư John Rand, Trưởng nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp nhỏ và vừa đang phải đối mặt với khó khăn về tuyển dụng lao động có chuyên môn cao, do họ luôn thiếu thông tin và cơ hội tiếp cận hơn là việc thị trường thiếu nguồn lao động chất lượng cao.
Do đó, Giáo sư cho rằng, Chính phủ cần có chính sách tăng cường tập trung hơn vào nhóm "doanh nghiệp có hoạt động kém" này, chỉ có như vậy Việt Nam mới thành công trong công cuộc theo đuổi mô hình phát triển bền vững và toàn diện.
Bên cạnh đó, Giáo sư Finn Tarp đến từ Trường đại học Copenhagen, nhấn mạnh nghiên cứu trên nhằm tìm hiểu những khó khăn và tiềm năng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa để hỗ trợ các cơ quan chức năng đưa ra các mục tiêu, quyết định chính sách thích ứng với tình hình và rào cản trong thực tế, tạo điều kiện cho nhóm doanh nghiệp này phát triển hơn nữa.
Linh Chi
Vietnam+
|