NHNN: 7 biện pháp quản lý thị trường vàng
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến góp ý, thẩm định của bộ, ngành, tổ chức tín dụng, tháng 10 năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức trình Chính phủ Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, gồm 7 chương 24 điều, cụ thể như sau:
THỰC TRẠNG VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH MỚI VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG
Tổng kết, đánh giá hơn 10 năm thực hiện Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 (sau đây gọi tắt là Nghị định 174) cho thấy Nghị định 174 đã có những đóng góp quan trọng trong việc tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh vàng của các doanh nghiệp cũng như hoạt động quản lý của các bộ, ngành liên quan.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, thay đổi của nền kinh tế và tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo Nghị định 174 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập tác động tiêu cực đến thị trường vàng, ngoại tệ, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng, cụ thể:
1. Thực trạng thị trường vàng
Theo thống kê, hiện tại trên cả nước có khoảng 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật, thời gian qua một số doanh nghiệp lợi dụng chức năng kinh doanh vàng trong giấy phép để môi giới, tổ chức các sàn giao dịch vàng nhỏ làm chân rết cho các sàn vàng lớn, liên kết với nhau làm giá, đầu cơ trên thị trường, hoạt động mua bán ngoại tệ trái phép, tung tin thất thiệt ảnh hưởng tâm lý của người dân về giá vàng và ngoại tệ để đầu cơ trục lợi.
Hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới diễn ra tương đối phổ biến. Lợi dụng việc chưa có quy định cụ thể giữa vàng nguyên liệu và vàng trang sức, tình trạng xuất khẩu vàng nguyên liệu trá hình dưới dạng vàng trang sức trong những năm vừa qua cũng khá phổ biến, có năm lên đến hàng chục tấn. Trên thị trường còn tồn tại một số doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ không đảm bảo chất lượng, giả mẫu mã của các đơn vị có uy tín làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng và uy tín của những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Về hoạt động sản xuất vàng miếng, hiện có 8 tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp kinh doanh vàng được NHNN cấp phép sản xuất vàng miếng. Tuy nhiên, vàng miếng của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) chiếm trên 90% thị phần vàng miếng cả nước. Vàng SJC được sử dụng trong các giao dịch vàng để thanh toán cũng như trong hoạt động huy động và cho vay vàng của các TCTD trước đây.
Trong giai đoạn 2008-2009, vấn đề nổi cộm nhất là hoạt động của các sàn giao dịch vàng. Tính đến cuối năm 2009, cả nước có 8 sàn giao dịch vàng của các TCTD. Hoạt động của các sàn giao dịch vàng không những gây rủi ro lớn cho các sàn vàng, nhà đầu tư mà còn có nhiều tác động tiêu cực tới nền kinh tế và xã hội. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2010, NHNN đã triển khai một loạt các biện pháp nhằm chấm dứt hoạt động kinh doanh sàn giao dịch vàng trong nước và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Đến ngày 30/03/2010, tất cả 8 sàn giao dịch vàng thuộc TCTD đã thực hiện đóng, tất toán tài khoản của khách hàng và không gây biến động trên thị trường vàng. Ngày 31/7/2010, toàn bộ 18 TCTD và doanh nghiệp có trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài đã hoàn thành việc tất toán tài khoản.
2. Nguyên nhân gây bất ổn thị trường vàng trong thời gian qua
Các biến động trên thị trường vàng trong thời gian qua chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong những năm gần đây, giá vàng thế giới liên tục biến động theo chiều hướng tăng cao đã làm tăng tình trạng đầu cơ, tích trữ vàng của người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, tình hình kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát cao đã làm cho niềm tin của người dân vào giá trị đồng Việt Nam giảm sút, tâm lý mua, nắm giữ vàng gia tăng.
Thứ ba, việc vàng miếng SJC chiếm thị phần lớn (trên 90%) cũng tạo lợi thế độc quyền tự nhiên, dẫn đến mỗi khi giá vàng biến động, tình trạng khan hiếm vàng SJC làm cho thị trường biến động mạnh hơn.
Thứ tư, do sự thiếu thống nhất trong các quy định về chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng.
Theo quy định tại Điều 5 Luật NHNN năm 1997, NHNN có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 174, NHNN chỉ được giao quản lý một số hoạt động kinh doanh vàng có liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ như:
(i) Xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu
(ii) Sản xuất vàng miếng:
Các hoạt động kinh doanh vàng khác như sản xuất, mua bán vàng trang sức mỹ nghệ, mua bán vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như các loại hàng hoá khác. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh vàng chỉ cần thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh vàng trên thị trường do Bộ Công thương chịu trách nhiệm.
NHNN được giao là cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng theo Pháp lệnh Ngoại hối 2005. Đồng thời đưa vàng trên tài khoản ở nước ngoài vào khái niệm ngoại hối.
Như vậy, chức năng quản lý của NHNN đối với hoạt động quản lý kinh doanh vàng theo Luật NHNN, Pháp lệnh ngoại hối cũng như các Nghị định của Chính phủ còn phân tán, chưa rõ ràng. Chính sự phân tán trong quản lý nhà nước này đã tạo ra nhiều kẽ hở trong quản lý, gây nên những tác động bất lợi khi thị trường có biến động.
Thứ năm, do những bất cập trong quy định tại Nghị định 174.
Nghị định 174 được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh thị trường vàng tương đối ổn định, do đó, về cơ bản, các quy định của Nghị định 174 khá thông thoáng. Trong giai đoạn đó, các quy định tại Nghị định 174 đã tạo điều kiện để hoạt động sản xuất, gia công vàng miếng, vàng trang sức phát triển, đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước.
Tuy nhiên, từ năm 2007, thị trường vàng đã có những thay đổi lớn, giá vàng thế giới biến động rất mạnh theo chiều hướng tăng, các quy định này đã không còn phù hợp với thực tế, từ đó đã gây nên những tác động tiêu cực tới thị trường, cụ thể như sau:
(i) Về hoạt động sản xuất vàng miếng: Theo Nghị định 174, NHNN cấp giấy phép sản xuất vàng miếng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Hiện nay, có 8 doanh nghiệp kinh doanh vàng và TCTD được NHNN cấp phép sản xuất vàng miếng. Hoạt động sản xuất vàng miếng của các doanh nghiệp và TCTD đã tạo ra lượng vàng miếng cần thiết đáp ứng nhu cầu mua bán của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế đã xảy ra tình trạng khi nhu cầu mua bán vàng miếng của thị trường tăng lên, có hiện tượng liên kết để làm giá, đầu cơ trên thị trường
(ii) Về hoạt động mua bán vàng miếng: Nghị định 174 không có quy định về mua bán vàng miếng, do đó, vàng miếng được lưu thông rộng rãi, mua bán tại hầu hết các cửa hàng vàng trong cả nước, dần dần trở thành phương tiện thanh toán và khó quản lý;
(iii) Về hoạt động sản xuất, gia công, mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ: Nghị định 174 quy định một số điều kiện đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ nghệ. Tuy nhiên, trên thực tế không có bất kỳ một quy định cụ thể nào về các nội dung này của các Bộ, ngành chức năng.
Trong khi đó, theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, hoạt động mua bán, sản xuất gia công vàng trang sức mỹ nghệ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng không cần cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Tổ chức, cá nhân muốn tham gia chỉ cần đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư trên địa bàn và hoạt động trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hoạt động kinh doanh này thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại và Luật Doanh nghiệp.
Ngoài ra, hoạt động xuất, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ cũng không có quy định điều phối và kiểm soát. Nghị định 174 không quy định trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất, gia công và mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ và chưa thể hiện vai trò quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các đối tượng này, do đó dẫn tới tình trạng một số doanh nghiệp sản xuất và mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ đã không đảm bảo chất lượng sản phẩm và làm hàng giả, hàng nhái các đơn vị uy tín, thậm chí một số doanh nghiệp kinh doanh vàng đã lợi dụng thực hiện các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép, liên kết để đầu cơ trên thị trường.
Thứ sáu, do những bất cập trong quy định về huy động và cho vay vốn bằng vàng.
Trước đây, hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD được thực hiện theo Quyết định 432/2000/QĐ-NHNN1 của NHNN. Trong thời gian đầu, hoạt động này đã có tác dụng huy động số vàng tích trữ trong dân để phục vụ phát triển kinh tế và làm nguyên liệu để chế tác hàng trang sức, mỹ nghệ kinh doanh và xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi thị trường vàng quốc tế và trong nước có những biến động mạnh, các TCTD đã thực hiện cho vay vàng đối với cá nhân, mua bán vàng miếng quy mô lớn trên thị trường làm gia tăng đầu cơ, thị trường ngầm về vàng diễn biến phức tạp, tăng nhập lậu vàng, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tiền tệ, ngoại hối và tỷ giá. Trước các tác động tiêu cực của hoạt động này, trong năm 2010 và năm 2011, NHNN đã ban hành các thông tư nhằm hạn chế, tiếp đó là chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.
Như vậy, để khắc phục các bất cập trong quản lý hoạt động kinh doanh vàng, việc ban hành Nghị định mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng là cần thiết, không chỉ đáp ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế, mà còn thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập và tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng.
CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG
1. Quan điểm chỉ đạo, định hướng quản lý thị trường vàng
Ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Liên quan đến quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Chính phủ đã có chỉ đạo: “Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới”.
Tại Kết luận số 02/KL-TW ngày 16/03/2010, Bộ Chính trị đã có chỉ đạo tăng cường quản lý thị trường vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, có lộ trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích hợp pháp của người nắm giữ vàng, quan tâm đúng mức đến nhu cầu của người dân và doanh nghiệp để ổn định tâm lý, tránh gây biến động cho thị trường, tổ chức lại thị trường vàng.
2. Các biện pháp cụ thể tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh trong dự thảo Nghị định
Thực hiện các chỉ đạo, định hướng về quản lý thị trường vàng, căn cứ vào thực tế của thị trường vàng Việt Nam, các kết quả đã đạt được trong thời gian qua, các quy định của dự thảo Nghị định được xây dựng theo hướng tổ chức lại thị trường vàng thông qua việc NHNN quản lý chặt chẽ và can thiệp mạnh vào thị trường vàng nhằm ngăn ngừa hoạt động đầu cơ vàng, hạn chế kinh doanh vàng miếng nhưng vẫn đảm bảo quyền tích trữ vàng, mua bán vàng của người dân. Các biện pháp tăng cường quản lý thị trường vàng trong dự thảo Nghị định cụ thể như sau:
Thứ nhất, NHNN quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất vàng miếng.
Do hoạt động sản xuất vàng miếng có tác động rất lớn tới nguồn cung vàng miếng trong nước, nên để bình ổn thị trường vàng, hoạt động sản xuất vàng miếng cần được quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, khác so với trước đây NHNN cho phép 8 TCTD và doanh nghiệp kinh doanh vàng đã được NHNN cấp phép sản xuất vàng miếng, Dự thảo Nghị định quy định các điều kiện chặt chẽ đối với doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng.
Cụ thể, để được NHNN xem xét cấp phép sản xuất vàng miếng, các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
(i) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký hoạt động sản xuất vàng miếng trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
(ii) Có vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên;
(ii) Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất vàng miếng;
(iv) Chiếm từ 25% thị phần sản xuất vàng miếng trong nước trở lên trong 3 năm liên tiếp gần nhất.
Dự kiến với các điều kiện nêu trên, số lượng doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng sẽ giảm xuống đáng kể. Đồng thời, dự thảo Nghị định cũng quy định rõ việc sản xuất vàng miếng được thực hiện theo hạn mức do NHNN cấp từng lần. Ngoài ra, dự thảo cũng quy định cụ thể trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất vàng miếng, đặc biệt là quy định kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Các quy định này nhằm đảm bảo cho NHNN quản lý chặt chẽ nguồn cung ứng vàng miếng, góp phần bình ổn thị trường, đồng thời ngăn chặn việc sản xuất vàng miếng từ nguồn nguyên liệu nhập lậu.
Thứ hai, dự thảo Nghị định thu hẹp đối tượng được phép kinh doanh mua bán vàng miếng, không khuyến khích hoạt động mua bán vàng miếng.
Khắc phục bất cập trong quản lý hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng hiện nay (hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện khá tự do tại hầu hết 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng, gây khó khăn cho công tác quản lý và tăng nguy cơ „vàng hóa”), Dự thảo Nghị định bổ sung quy định coi hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, có cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.
Đồng thời dự thảo Nghị định cũng bổ sung quy định về điều kiện chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng. Cụ thể, để được NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh mua bán vàng miếng, các doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
(i) Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;
(ii) Có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên;
(iii) Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 02 năm trở lên;
(iv) Có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 (năm trăm) triệu đồng/năm trở lên trong 2 (hai) năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan thuế);
(v) Có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 (ba) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Như vậy, với các điều kiện chặt chẽ như trên, dự kiến số lượng doanh nghiệp được phép kinh doanh mua bán vàng miếng sẽ thu hẹp đáng kể từ trên 10 ngàn doanh nghiệp như hiện nay xuống chỉ còn một số doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có khả năng tài chính, kinh nghiệm, uy tín trong lĩnh vực kinh doanh vàng được phép tiếp tục thực hiện mua bán vàng miếng.
Tuy nhiên, để bảo đảm quyền tích trữ, mua bán vàng của người dân, dự thảo Nghị định quy định các điều kiện kinh doanh mua bán vàng miếng của TCTD tương đối thuận lợi để dựa vào mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của TCTD thực hiện mua bán vàng với người dân. Việc này giúp NHNN quản lý tốt hơn thị trường vàng miếng do các TCTD do NHNN trực tiếp quản lý.
Đồng thời, để tăng cường hiệu quả quản lý, dự thảo Nghị định cũng bổ sung quy định "Hoạt động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng”.
Như vậy, việc kinh doanh vàng miếng không có giấy phép của NHNN và hoạt động mua bán vàng miếng trên thị trường tự do là hoạt động bất hợp pháp và sẽ bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của Nghị định 95/2011/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành.
Thứ ba, NHNN quản lý chặt chẽ hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu.
NHNN là cơ quan tổ chức và/hoặc cấp phép hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Theo quy định này, NHNN sẽ tổ chức xuất nhập khẩu hoặc cấp phép cho doanh nghiệp, TCTD xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. NHNN sẽ lựa chọn hình thức phù hợp với thực tế và mục tiêu quản lý theo từng giai đoạn.
Quy định này cũng nhằm tạo điều kiện để NHNN quản lý, kiểm soát lượng vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu cũng như điều tiết cung-cầu trên thị trường, hạn chế tình trạng xuất nhập lậu vàng, đầu cơ, lũng đoạn thị trường.
Thứ tư, NHNN thực hiện quản lý chặt chẽ hơn hoạt động sản xuất, mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ.
Theo quy định tại dự thảo Nghị định, hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải được NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Việc quy định các doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải được NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh là cơ sở để cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu. Mặt khác, việc yêu cầu các doanh nghiệp phải đóng mã ký hiệu và hàm lượng vàng trên sản phẩm và công bố tiêu chuẩn áp dụng sẽ góp phần kiểm soát chất lượng và hạn chế tình trạng gian lận tuổi vàng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ, dự thảo Nghị định quy định hoạt động này là hoạt động kinh doanh có điều kiện nhưng không cần cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn, minh bạch trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, giúp tăng cường quản lý chất lượng vàng trên thị trường, dự thảo Nghị định quy định các doanh nghiệp kinh doanh mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ có trách nhiệm:
(i) Niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về khối lượng, hàm lượng vàng, giá mua, giá bán các loại sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường;
(ii) Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hoá đơn chứng từ;
(iii) Tuân thủ các quy định pháp luật về đo lường;
(iv) Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh...
Thứ năm, quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh vàng khác.
Dự thảo Nghị định quy định các hoạt động kinh doanh vàng khác, ngoài hoạt động được quy định trong dự thảo Nghị định sẽ chỉ được phép thực hiện sau khi Thủ tướng Chính phủ cho phép và được NHNN cấp phép.
Quy định nhằm tạo sơ sở pháp lý để xử lý các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hoạt động kinh doanh này không có phép của NHNN (như hoạt động của sàn vàng bất hợp pháp, kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài, kinh doanh các sản phẩm phái sinh về vàng...).
Ngoài ra, hoạt động kinh vàng trên tài khoản, hoạt động phái sinh về vàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ, gây bất ổn thị trường vàng, ngoại hối, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và quyền lợi của người dân. Do vậy, việc cho phép thực hiện các hoạt động này phải tùy thuộc vào điều kiện thực tế trong từng thời kỳ.
Thứ sáu, tạo cơ chế cho phép NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng khi có diễn biến bất thường.
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động can thiệp của NHNN nhằm bình ổn thị trường vàng khi có diễn biến bất thường, dự thảo Nghị định quy định cho phép NHNN thực hiện can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua các hoạt động:
(i) Cấp phép sản xuất vàng miếng;
(ii) Tổ chức mua bán vàng miếng trên thị trường trong nước;
(iii) Tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu; (iv) Tổ chức huy động vàng.
Việc nâng cao vai trò can thiệp và quản lý của NHNN sẽ giúp kiểm soát cung – cầu vàng trên thị trường, bình ổn giá vàng, từ đó khắc phục tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường, đồng thời góp phần tiết kiệm ngoại tệ để nhập khẩu vàng. Đồng thời, hoạt động mua, bán vàng can thiệp của NHNN trong tương lai có thể giúp duy trì mức chênh lệch hợp lý giữa giá vàng trong nước và quốc tế, do đó hạn chế việc buôn lậu vàng qua biên giới
Thứ bảy, Nhà nước thực hiện điều tiết thị trường vàng thông qua chính sách thuế.
Dự thảo Nghị định quy định Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu vàng, thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập đối với hoạt động kinh doanh vàng phù hợp trong từng thời kỳ.
Theo quy định này, ngoài chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu vàng, Bộ Tài chính sẽ làm đầu mối kiến nghị việc ban hành chính sách thuế đối với kinh doanh vàng trong nước như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập nhằm giảm tính hấp dẫn của việc mua bán, tích trữ vàng miếng. Đây sẽ là biện pháp kinh tế có hiệu quả cao trong việc góp phần hạn chế tình trạng ”vàng hoá” trong nước.
Đồng thời, dự thảo Nghị định cũng quy định trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cho NHNN, các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trong công tác phối hợp, quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng, đặc biệt về việc quản lý chất lượng, xuất xứ và kiểm tra, thanh tra, kiểm soát thị trường vàng.
Như vậy, cùng với các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quy định pháp luật về ngoại hối, vàng vừa được Chính phủ ban hành tại Nghị định 95/2011/NĐ-CP, các biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường vàng được Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ tại dự thảo Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã tạo thành cơ chế đồng bộ, hiệu quả xử lý cơ bản các vấn đề bất cập của thị trường vàng. Ngân hàng Nhà nước tin rằng việc thực hiện nghiêm các biện pháp nêu trên sẽ giúp thị trường vàng bình ổn, qua đó từng bước hạn chế tình trạng "vàng hóa”, hạn chế ảnh hưởng của thị trường vàng đến việc điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của NHNN, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân liên quan.
SBV
|