Kinh tế trưởng WB: Việt Nam đã bình ổn được thị trường ngoại tệ
Điều đầu tiên và vô cùng quan trọng mà Việt Nam đã đạt được, đó là tạo được một sự bình ổn trên thị trường ngoại tệ. Trong đó đặc biệt là đã hạn chế đáng kể sự lũng đoạn của thị trường đôla tự do, rồi tỷ giá đôla Mỹ trên thị trường tự do và ngân hàng cũng được thu hẹp lại đáng kể.
Phóng viên đã có buổi phỏng vấn ông Deepak Mishra, Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam về tình hình kinh tế Việt Nam sau 6 tháng thực hiện Nghị quyết 11 về kiềm chế lạm phát.
Việt Nam đã thực hiện Nghị quyết 11 gần 6 tháng. Vậy nhìn lại thời gian qua, với từ cách là Kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới WB tại Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về những thành quả mà Việt Nam đã đạt được và những vấn đề còn đang tồn tại?
Theo tôi, điều đầu tiên và vô cùng quan trọng mà Việt Nam đã đạt được, đó là tạo được một sự bình ổn trên thị trường ngoại tệ. Trong đó đặc biệt là đã hạn chế đáng kể sự lũng đoạn của thị trường đôla tự do, rồi tỷ giá đôla Mỹ trên thị trường tự do và ngân hàng cũng được thu hẹp lại đáng kể.
Cũng có người hỏi tôi, liệu có nên lo ngại những dấu hiệu tỷ giá đang tăng hay không từ việc Ngân hàng nhà nước hôm qua tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng và các ngân hàng thương mại thì đồng loạt tăng tỷ giá mua bán đôla. Tuy nhiên, tôi thì cho rằng, đó chỉ là những dấu hiệu cung cầu của thị trường và không phải biểu hiện của sự căng thẳng tỷ giá như những năm trước.
Thành quả tiếp đến mà Việt Nam đã đạt được, đó là Ngân hàng Nhà nước đã gia tăng được một lượng dự trữ ngoại hối đáng kể trong những tháng vừa qua, theo đó tạo sự chủ động nhất định cho Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cái được đó thì vấn đề tồn tại lớn nhất hiện nay của Việt Nam đó vẫn là sức ép lạm phát. Lạm phát vẫn tiếp tục tăng cao trong tháng 8 và đang gần sát mục tiêu 15 đến 17%.
Thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, cùng với các biện pháp khác thì Ngân hàng nhà nước đã thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt trong suốt thời gian qua, thế nhưng tại sao lạm phát vẫn tiếp tục tăng?
Trước hết, chúng ta phải rõ ràng điều này, đó là lạm phát của Việt Nam không phải chỉ là do cung tiền quá lớn, không phải chỉ là do tăng trưởng tín dụng quá cao. Đó cũng là một yếu tố gây nên lạm phát, chúng tôi gọi là nguyên nhân ngắn hạn. Còn nguyên nhân mang tính dài hạn và khó giải quyết hơn, đó chính là nguyên nhân cho cơ cấu của nền kinh tế. Đó là nguyên nhân mang tính sâu xa như vấn đề bội chi ngân sách, do nhập siêu, do các vấn đề còn tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước. Thế nên, không phải là các bạn không dùng thuốc đúng, mà là dùng chưa đủ số thuốc cần thiết.
Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc đưa ra những biện pháp khá quyết liệt để giải quyết các yếu tố gây ra lạm phát trong ngắn hạn. Đó là các biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ như giảm cung tiền, giảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng. Nhưng chưa đủ, kèm với đó, vấn đề cắt giảm chi tiêu công cũng vô cùng quan trọng. Kết hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là điều vô cùng quan trọng, tôi không cho rằng, cần phải chú trọng cho mục tiêu nào hơn, nhưng nếu thời gian qua chúng ta đã chú trọng nhiều đến chính sách tiền tệ, thì giờ là lúc phải tập trung vào việc cắt giảm chi tiêu công, giảm thâm hụt ngân sách.
Một số ý kiến cho rằng, việc thực hiện chính sách tiền tệ quá chặt trong thời gian qua đã khiến cho các doanh nghiệp phải chịu một mức lãi suất quá cao gây ảnh hưởng không tốt không chỉ đến các doanh nghiệp mà đến cả nền kinh tế. Và giờ là lúc nên để chính sách tiền tệ mở hơn. Quan điểm của ông như thế nào?
Tôi lại nghĩ khác. Giảm cung tiền xuống mức 16% và giảm tăng trưởng tín dụng ở mức 20% là mục tiêu đề ra của chính phủ, và đó là mức độ khá phù hợp với Việt Nam hiện nay để nhằm duy trì một sự ổn định trong tăng trưởng kinh tế. Tính đến hết tháng 7, tăng trưởng tín dụng đạt trong khoảng 7 đến 7,5%, trong khi mục tiêu là 20%.
Nghĩa là vẫn còn một khoảng đến 13% mới đến đích. Phải chăng là luồng tín dụng đang có vẻ chậm hơn mong đợi?
Tôi thì cho rằng, Ngân hàng nhà nước nên cho phép luồng tín dụng tăng nhanh hơn nữa và quan trọng hơn cả đó là tăng nhanh nhưng luồng tiền sẽ vào đâu. Có vào được với các doanh nghiệp sản xuất phục vụ cho mục đích xuất khẩu hay không, hay tiền lại chỉ đến với các hoạt động đầu cơ mang tính ngắn hạn, không phục vụ cho nền kinh tế.
Chỉ đơn cử một ví dụ là đang cần phải ưu tiên cho sản xuất, cho các doanh nghiệp sản xuất vay với lãi suất ưu đãi hơn, nhưng cuối cùng chính ngân hàng cũng không kiểm soát được mục đích thực sự của người vay đó là gì. Biết đâu họ vay để đầu tư bất động sản, vay mua vàng, hoặc cho những mục đích cá nhân khác thì rõ ràng tiền đó là không sinh lợi cho nền kinh tế.
Chúng tôi mong đợi trong vòng từ 2 đến 3 tháng tới, sẽ nhìn thấy được một sự cải thiện nhất định về nguồn cung tiền và tăng trưởng tín dụng, bởi chúng ta đều biết trong các quý vừa qua, hơn ai hết, các doanh nghiệp đang thực sự cần vốn để mở rộng sản xuất và tăng trưởng. Tôi nghĩ điều này cũng không nằm ngoài mục tiêu hướng tới của Nghị quyết 11.
Trần Hà
vtv
|