Tái cấu trúc và câu chuyện ngân hàng - đại gia
Vấn đề cải tổ, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã bắt đầu được các cơ quan hàng đầu của Chính phủ, Quốc hội đề cập đến trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn càng bộc lộ rõ những điểm yếu trầm trọng về cấu trúc.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong buổi làm việc với các chuyên gia kinh tế cuối tuần trước đã nhấn mạnh yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Ông Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia trong một cuộc phỏng vấn gần đây cũng đề cập đến yêu cầu này.
Một trong những vấn đề chính mà cơ quan quản lý nhà nước chắc chắn sẽ phải đặt ra khi xem xét cải tổ hệ thống ngân hàng, là việc chấm dứt tình trạng những “đại gia” doanh nghiệp sở hữu phần lớn trong các ngân hàng thương mại. Rồi, họ dùng chính các ngân hàng này cấp vốn cho hệ thống doanh nghiệp của mình, làm trầm trọng thêm tình trạng nợ xấu và rối loạn thị trường tiền tệ khi nền kinh tế gặp khó khăn. Luật Ngân hàng và luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có những quy định rõ ràng nhằm hạn chế tình trạng sở hữu cao chi phối hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Thế nhưng trong suốt thời gian qua, luật này vẫn chưa được sử dụng triệt để.
Theo số liệu từ Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, nợ xấu tăng mạnh trong nửa đầu năm nay. Đến hết tháng 6.2011, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng vào khoảng 75.000 tỉ đồng, tăng 50% so với cùng kỳ năm 2010. Nếu tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ ngân hàng là 2,16% vào cuối năm 2010, thì đến hết tháng 6.2011 đã tăng lên 3,1%. Ông Lê Xuân Nghĩa, phó chủ tịch uỷ ban cho biết, nhóm nợ có khả năng mất vốn chiếm đến gần một nửa số này, trong đó đa số là nợ trong lĩnh vực bất động sản. Với tình hình thị trường bất động sản vẫn tiếp tục đình trệ kéo dài, việc nợ xấu tiếp tục tăng là khó tránh khỏi.
Nợ xấu gây ra thiếu thanh khoản ngắn hạn và cục bộ trong hệ thống ngân hàng trong thời gian qua, đã nhiều lúc đẩy lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng lên mức trên 30%. Những ngân hàng “có vấn đề” loại này đã được liệt vào danh sách những ngân hàng cần được kiểm soát đặt biệt. Tại các cuộc họp Chính phủ, nguyên nhân sâu xa của tình trạng nợ xấu gia tăng ở những ngân hàng này đã và đang được xem xét. Trong đó, có vấn đề các “đại gia” là cổ đông chủ yếu của những ngân hàng này chi phối, nhằm cấp tín dụng cho các doanh nghiệp mà họ kiểm soát, và có rất nhiều là các dự án liên quan đến bất động sản.
Một trong những vấn đề chính mà cơ quan quản lý nhà nước chắc chắn sẽ phải đặt ra khi xem xét cải tổ hệ thống ngân hàng, là việc chấm dứt tình trạng những “đại gia” doanh nghiệp sở hữu phần lớn trong các ngân hàng thương mại. Rồi, họ dùng chính các ngân hàng này cấp vốn cho hệ thống doanh nghiệp của mình.
Theo luật Các tổ chức tín dụng 2010, giới hạn sở hữu của một cá nhân tại một ngân hàng không được vượt quá 5%; một cá nhân cộng với người liên quan (bao gồm cả công ty mà cá nhân có sở hữu đa số, người nhà, cổ phần uỷ thác cho tổ chức, cá nhân khác đứng tên…) không được sở hữu quá 20%. Luật này cũng có các quy định cấm hoặc hạn chế cấp tín dụng cho các cổ đông lớn và thành viên liên quan, đồng thời cũng hạn chế tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người liên quan. Đây là những điều khoản được xây dựng nhằm hạn chế rủi ro đến từ tình trạng cho vay đến một vài khách hàng. Nếu điều luật này được thi hành nghiêm minh, thì khó có thể xảy ra tình trạng ngân hàng cho vay trong chính hệ thống doanh nghiệp do chủ ngân hàng sở hữu.
Theo một chuyên gia ngân hàng, nếu ngân hàng Nhà nước thực hiện thanh tra chặt chẽ vấn đề này, sẽ phát hiện ra hàng loạt vi phạm. (Trong phạm vi bài viết này, chỉ bàn đến vấn đề chung, chúng tôi không “vạch mặt chỉ tên” những cá nhân và ngân hàng vi phạm luật về sở hữu vốn trong ngân hàng). Theo một nguồn tin từ Chính phủ, an ninh đã vào cuộc điều tra những trường hợp cá nhân đứng đằng sau các cổ phần chi phối trong ngân hàng, và phát hiện ra nhiều trường hợp các ngân hàng do các đại gia chi phối. Có trường hợp, một cá nhân, thông qua uỷ quyền, chi phối đến 70% cổ phần trong một ngân hàng, mặc dù bản thân cá nhân “đại gia” này không nắm một cổ phiếu nào.
Việc những cá nhân, doanh nghiệp lớn nắm cổ phần chi phối trong một hoặc nhiều ngân hàng, nhiều hơn mức được luật cho phép, là thực tế không có gì đáng ngạc nhiên với thị trường, và chắc chắn cơ quan quản lý cũng phải biết rõ. Nhưng hiếm khi vấn đề này được đưa ra thảo luận thẳng thắn trong công luận cũng như trong các cơ quan công quyền. Điều gì ngăn cản các cơ quan quản lý nhà nước điều tra thực trạng các ngân hàng, các cơ quan đại biểu của dân bàn luận vấn đề này? Đây có lẽ là câu hỏi mà ông Nguyễn Văn Bình, thống đốc mới của ngân hàng Nhà nước, sẽ phải trả lời, khi Chính phủ bắt tay vào việc tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng như mục đích mà Thủ tướng Chính phủ đã đề ra.
Điều 55: tỷ lệ sở hữu cổ phần
1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 điều 149 của luật này để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng;
b) Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hoá;
c) Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2 điều 16 của luật này.
3. Cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
4. Tỷ lệ sở hữu quy định tại các khoản 1, 2 và 3 điều này bao gồm cả phần vốn uỷ thác cho tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần.
5. Trong thời hạn năm năm, kể từ ngày được cấp giấy phép, các cổ đông sáng lập phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; các cổ đông sáng lập là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ.
Trích: luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 |
Lan Anh
sài gòn tiếp thị
|