Nhập nông sản là khó tránh
“Nếu tình hình này vẫn tiếp diễn, nông dân “tiêu” chắc!”, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, khẳng định như vậy khi đề cập đến chuyện Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng đang phải nhập khẩu rất nhiều loại nông sản trong cuộc trả lời phỏng vấn của TBKTSG.
TBKTSG: Ông nghĩ gì trước thực trạng nhập khẩu nông sản ồ ạt trong thời gian qua, trong đó hầu hết Việt Nam đều sản xuất được?
- Tiến sĩ Lê Văn Bảnh: Có rất nhiều vấn đề. Như về thương mại, do Nhà nước không quản lý được. Từ muối, đường, cho đến lòng heo đều nhập. Vừa qua, Công ty Cataco (Cần Thơ) thấy rùa tai đỏ (được cảnh báo là có nguy cơ xâm hại môi trường), dự đoán nhập về có lãi nên vẫn nhập. Đó là tình hình chung.
Rốt cuộc vì sao? Lấy ví dụ như lúa, trước đây Chính phủ định hướng phải giúp nông dân lãi ít nhất 30%, nhưng rốt cuộc do các doanh nghiệp phải tự cân đối hiệu quả nên đồng lời của người trồng lúa không được như mong muốn. Như vậy, nguyên nhân chính là vấn đề hiệu quả của doanh nghiệp, cụ thể ở đây là giá thành của các loại nông sản. Theo tôi biết, phần lớn các loại nông sản nhập khẩu về đến Việt Nam, sau khi cộng hết mọi chi phí vẫn rẻ hơn nông sản trong nước khoảng 30%. Như bắp lai, một số công ty nhập từ Mỹ về, tính ra giá chỉ 6.000-7.000 đồng/ki lô gam, trong lúc cùng thời điểm giá bắp trong nước vào khoảng 11.000 đồng/ki lô gam.
Nếu loại trừ yếu tố giá thành, thì phải chăng nông sản nguyên liệu sản xuất trong nước chất lượng kém...?
- Nếu nói là do chất lượng thì chưa hẳn. Vừa qua chúng ta nhập cám từ Ấn Độ. Đây là loại cám đã được họ trích ly dầu, chỉ còn lại bã nên để lâu không bị mốc. Như vậy, đạm trong cám đã bị lấy một phần, dĩ nhiên chất lượng không thể bằng cám trong nước.
Vấn đề là do chúng ta sản xuất quá nhỏ lẻ. Trong khi với lĩnh vực nông nghiệp, nhất là chế biến thức ăn gia súc, các loại nguyên liệu như bắp, đậu nành... thiếu rất nhiều. Đó là lý do phần lớn doanh nghiệp chọn hình thức nhập khẩu để ổn định, giá thành lại rẻ.
Trình độ, phương tiện sản xuất và tỷ lệ ứng dụng chất xám cao khiến nông sản của nhiều nước có giá thành rẻ hơn Việt Nam?
Một trang trại trồng bắp ở Úc mà tôi từng đến tham quan, rộng hơn 1.000 héc ta nhưng chỉ có hai cha con quản lý! Họ cứ cho xe chạy xung quanh trang trại, không cần phải thuê nhân công trông coi. Đến kỳ thu hoạch, họ cũng chỉ thuê thêm máy, chứ không cần thêm nhân công. Kho trữ của họ không cần ai quản lý, mọi thứ đều được xử lý bằng máy vi tính.
Còn ở Mỹ, một trang trại ít nhất cũng có quy mô hàng ngàn héc ta. Quy mô lớn vừa giúp chủ nhân giảm chi phí do ứng dụng cơ giới... năng suất bắp trồng lại rất cao nên giá thành giảm xuống.
Như vậy, điều trước tiên mà nông dân cần làm để giảm tình trạng nhập khẩu là phải giảm giá thành, tăng sản lượng?
- Giảm giá thành không chỉ đơn giản là giảm chi phí, tăng năng suất. Bởi ở các nước, giảm giá thành còn nhờ khâu chế biến. Tại Thái Lan, cây mía họ không bỏ thứ gì. Thân cây ép làm đường, cồn, còn bã làm phân vi sinh hoặc ép lại làm nguyên liệu chế biến bàn, ghế... Ở Hàn Quốc, trấu được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất điện, hoặc ép thành bánh làm chất đốt, rơm thì bó lại làm thức ăn cho gia súc. Còn nhiều nước, thân cây bắp được ủ men để cho bò sữa ăn. Còn cám, như tôi đã nói, ở Ấn Độ họ đã trích ly dầu. Chính những sản phẩm phụ đã giúp giảm giá thành của sản phẩm chính.
Trong khi đó, tại Việt Nam, công nghệ chế biến quá kém nên bột xương, bánh dầu cũng đều phải nhập. Cả nước mỗi năm sản xuất khoảng 40 triệu tấn lúa, trong đó vùng ĐBSCL khoảng 21 triệu tấn. Tính bình quân 100 ki lô gam lúa sẽ dôi ra khoảng 20-25 ki lô gam tấm và cám, chưa kể trấu. Nhưng trấu đa phần bị đổ bỏ; còn cám thì cả vùng ĐBSCL chỉ có một nhà máy mua để trích ly dầu, nhưng số lượng không đáng kể. Như vậy khó tính đến việc giảm giá thành sản phẩm chính như các nước khác.
Nếu tăng sản lượng nhưng doanh nghiệp không đặt hàng thì cũng khó. Doanh nghiệp Việt Nam lại thích... đi “khơi khơi”, thấy chỗ nào được là mua. Do đó, trước mắt tạm thời vẫn phải nhập và giảm dần bằng cách tự cung. Nhưng tự thân người nông dân thì khó làm và chúng ta cũng không thể cấm nhập, vì đó là cái giá của việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Ý ông muốn đề cập đến vai trò của Nhà nước?
- Trước tiên Nhà nước nên có quy hoạch. Tính toán lại diện tích lúa, nơi nào trồng, nơi nào không cần trồng để chuyển đổi sang loại cây khác. Không khó! Chỉ cần cân đối tính toán theo nhu cầu dân số, dự trữ, xuất khẩu... Rồi lượng gia súc, gia cầm, loại nào mỗi năm cần bao nhiêu, nguyên liệu làm thức ăn sẽ trồng ở đâu. Tiếp đó, phải liên kết các vùng sinh thái khác nhau để cùng sản xuất sao cho không trùng lắp. Chứ mỗi thứ đều mua về như vừa qua thì bao nhiêu tiền cho đủ?
Mặt khác, cần phải đẩy mạnh khâu chế biến nông sản, tận dụng các phụ phẩm rồi mới nghĩ đến việc giảm giá thành, thu hút doanh nghiệp mua sản phẩm. Lâu nay, chúng ta chỉ tính chuỗi giá trị của hạt gạo mà không ai tính đến chuỗi giá trị của đồng ruộng. Phải tính xem rơm sẽ dùng làm gì, trấu làm gì, ai đảm nhận? ĐBSCL mỗi năm có khoảng 21 triệu tấn lúa, lượng cám khoảng hơn 10%, ai sẽ xử lý lượng cám này? Đây lại là vấn đề liên quan đến thu hút đầu tư. Như ở Cần Thơ, bao lâu nay cứ thu hút rất nhiều nhà máy dệt may, gia công... nhưng có được bao nhiêu nhà máy tận dụng nguyên liệu cám?
Nhưng thưa ông, nếu thế thì lại vướng vấn đề tích tụ ruộng đất và giữ diện tích lúa để bảo đảm an ninh lương thực?
- Diện tích lúa thì như tôi đã nói, phải tính toán lại xem bao nhiêu là vừa, chứ không thể nông dân nào cũng trồng lúa. Và nếu đã quy hoạch vùng trồng lúa thì nông dân cần được hưởng chính sách, chứ không thể để người trồng lúa cứ nghèo hoài! Tích tụ ruộng đất cũng phải có chính sách, chứ để làm nhỏ lẻ thì sớm muộn họ cũng bán đất ra đi. Cứ thử tính, nếu một hộ làm một héc ta lúa, năng suất 10 tấn/năm, quy ra lãi chỉ khoảng 20 triệu đồng/năm. Nếu lấy con số 20 triệu đồng đó chia cho 12 tháng, rồi chia cho 2-3 nhân khẩu thì thu nhập mỗi người/tháng chưa đến 0,5 triệu đồng. Trong khi đó, công nhân may, mỗi tháng thu nhập khoảng 1,5 triệu đồng đã than sống không nổi!
Hồ Hùng
tbktsg
|