Nghịch lý !
Một thực tế đáng buồn là trong những Cty đang thành công nhất ở thị trường nông thôn thì đa số lại là các thương hiệu quốc tế, những DN 100% vốn nước ngoài như Unilever, P&G, ICP, PepsiCo VN, Coca Cola… Dù VN đã có một vài thương hiệu như Tân Hiệp Phát, Dược Hậu Giang, Vinamilk, Kinh Đô, Mỹ Hảo… nhưng lượng hàng còn khiêm tốn.
Hiện cả nước có hơn 6.000 xã, 9.000 chợ và 550.000 điểm bán lẻ trên cả nước. Tuy nhiên, đầu tư nhà nước cho nông thôn hiện nay còn thấp: 14% tổng đầu tư, FDI vào nông thôn không đáng kể (3% tổng mức FDI cả nước), đầu tư cho khoa học công nghệ ở nông thôn thấp : 0,13 % GDP nông nghiệp, so con số này ở các nước là 4%.
Một nghiên cứu gần đây của AC.Nielsen về cấu trúc bán lẻ ở VN cho thấy, 70 % dân số sống ở nông thôn nhưng mạng lưới cửa hàng bán lẻ tương ứng đang phục vụ họ chỉ chiếm 47% của cả nước. Và mức tiêu dùng của lực lượng 70% dân số này chỉ chiếm 27% doanh số bán lẻ trên cả nước.
Đối với DN đang hoạt động ở VN, những Cty đang được xem là thành công nhất trong khai thác thị trường nông thôn (khoảng 10 - 15 DN), thì doanh số bán ở thị trường nông thôn của họ chỉ từ 20-25% tổng doanh số của Cty. Còn với những DN khác trước nay có bán hàng ở nông thôn thì tỷ trọng thị trường nông thôn chỉ khoảng 10-15%.
Thực tế, hầu hết người tiêu dùng nông thôn không quan tâm thương hiệu và cũng hầu như chỉ biết rất ít thương hiệu (họ thuộc nhờ xem quảng cáo tivi) mà chỉ mua hàng do giá rẻ và thấy phù hợp nhu cầu. Thậm chí, nhiều người tiêu dùng ở Văn Quan, Bắc Sơn (Lạng Sơn) cho biết, “dù biết hàng Trung Quốc có độc tố nhưng chúng tôi không có gì khác để dùng, các nhà sản xuất của VN bỏ bê chúng tôi thì chúng tôi phải dùng thôi”. Chính “hoàn cảnh” phải sử dụng những hàng hoá có sẵn của người tiêu dùng lại là môi trường thuận lợi cho hàng giả nhái được chuộng vì giá rẻ. Nhiều người dân có tâm lý chẳng thà mua hàng nhái mà biết chắc là giả, nhái, dùng một thời gian vứt đi còn hơn mua hàng hiệu VN có giá cao mà không chắc không bị giả nhái. Điều này thể hiện một điểm yếu của hàng Việt là khâu dịch vụ khách hàng sau khi bán hàng chưa có chuyên nghiệp và chưa đủ sức để đảm bảo. Trong khi đó, tràn ngập trên thị trường, không chỉ ở vùng nông thôn mà ngay cả ở đô thị, hàng giả hàng nhái hàng không nhãn mác ngang nhiên lưu hành.
Hiện có những chợ huyện có đến 90% là hàng hóa Trung Quốc và sản phẩm không có nhãn mác, hàng cấp thấp. Chợ Thổ Tang là một ví dụ khiến chúng ta không khỏi giật mình khi chợ đầu mối lớn nhất phía Bắc hầu như không có hàng rau quả của VN, thay vào đó toàn bộ là rau quả của Trung Quốc. Thậm chí có những mặt hàng lâu nay nghĩ là độc quyền của VN như Thanh Long ruột đỏ cũng đang nhập của Trung Quốc.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng trên là nền kinh tế từ lâu tập trung định hướng xuất khẩu - làm gia công xuất khẩu đơn giản hơn làm thị trường nội địa. Riêng đối với thị trường nông thôn, còn nhiều khó khăn do địa bàn rộng, khoảng cách các khu dân cư rất xa, sức mua yếu, thị hiếu khác hẳn so với đô thị, chi phí thiết lập và duy trì mạng phân phối rất cao. Ngoài ra, còn có khó khăn tâm lý DN ngại thương hiệu mình gắn với nông thôn thì bị... mất giá, bị coi là bèo...
Trong khi đó, người dân nông thôn, ít đọc báo mà xem TV là chủ yếu. Chính vì vậy quảng cáo trên truyền hình đã “ấn định” chấp nhận của người tiêu dùng. Trong khi đó, đối với các DN VN, ngoài Tân Hiệp Phát, Vinamilk, khó có DN VN nào “ló mặt” được lên “màn ảnh” bởi với giá 40 - 50 triệu trong 30 giây, chỉ tính trong 1 đêm theo quy luật về ghi nhận trên vỏ não thì DN VN chỉ quảng cáo 1 tuần là đóng cửa.
Trong hoàn cảnh đó, việc tổ chức các chuyến “hàng Việt về nông thôn” đòi hỏi chuyên nghiệp, chặt chẽ, không thể để cho hàng Trung Quốc lẫn lộn vào. Bên cạnh đó, hàng hoá phải có chất lượng ổn định, giá bán phải chăng, có mạng lưới phân phối rộng khắp và có sự giám sát, chăm sóc, hỗ trợ thương mại tốt. Nếu không, nghịch lý để các thương hiệu quốc tế ngập tràn vùng nông thôn trong khi thương hiệu Việt lép vế vẫn tồn tại.
Phương Thảo
diễn đàn doanh nghiệp
|