Được thưởng mà... không vui
Đang mùa đại hội cổ đông, hàng loạt các doanh nghiệp niêm yết công bố các thông tin về kế hoạch tăng vốn điều lệ bằng phát hành thêm cổ phiếu. Trong bối cảnh lãi suất tín dụng hiện nay, kênh huy động vốn này tỏ ra nhanh, ít tốn phí và ràng buộc về hiệu quả sử dụng vốn… thấp nhất.
Có những người đang bị ép phải nhận cổ phiếu thưởng: Tại Đại hội cổ đông của ngân hàng Sacombank tổ chức trung tuần tháng 3 vừa qua, một số cổ đông đã phát biểu nhất quyết không muốn nhận cổ tức bằng cổ phiếu thưởng.
Gần đây nhất, phương án phát hành hơn ba triệu cổ phiếu của Công ty cổ phần Bibica để thưởng cho cổ đông hiện hữu tỷ lệ 5:1 đã không được thông qua do 57.4% cổ đông không đồng ý. Khác thời gian tiền kỳ đại hội cổ đông những năm trước, năm nay, giá cổ phiếu mùa đại hội đang “rơi” khi nhà đầu tư nghe thấy tin họ sẽ được thưởng …
Tại sao các doanh nghiệp chọn tăng vốn bằng cổ phiếu và tác động đến thị trường vốn như thế nào?
Vốn vay: chi phí cao, chế tài chặt
Từ cuối năm 2009 đến nay, khi Chính phủ tiến hành cắt gói hỗ trợ lãi suất, cộng thêm việc thắt chặt tiền tệ để phòng ngừa lạm phát, chí phí vốn mà các doanh nghiệp phải gánh chịu đã tăng lên đáng kể.
Nếu như trước đây chi phí vốn của các doanh nghiệp chỉ khoảng 4-6% sau khi đã được hỗ trợ 4% từ Chính phủ thì hiện tại các doanh nghiệp phải chịu mức lãi suất khoảng 15%, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ thì phải chịu mức lãi suất lên đến 17-18%, thậm chí là 20%/năm. Với lãi suất này thì doanh nghiệp phải đạt lợi nhuận từ 25-27%/năm thì mới bảo đảm sau khi trả nợ lãi vay ngân hàng vẫn có thể tồn tại
Đứng trước vấn đề: (i) chi phí vốn vay đã tăng lên mức độ khá cao; (ii) kỳ hạn của nguồn vốn ngắn; (iii) mục tiêu sử dụng vốn và quy trình sử dụng vốn bị kiểm soát chặt chẽ;… thì các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết đã và đang tính đến bài toán huy động từ các cổ đông.
Theo thống kê chính thức trên sàn niêm yết Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX), thì bình quân các doanh nghiệp trả cổ tức hàng năm khoảng 10-15%, chỉ có một số rất ít trả cổ tức vượt quá 20%.
Như vậy, nếu tính theo số vốn góp bằng mệnh giá (10.000 VND/cổ phiếu) thì hàng năm chủ sở hữu cổ phần (cổ đông) nhận được suất sinh lợi khoảng 10-15%/năm, còn nếu so với thị giá thì con số này thấp hơn rất nhiều.
Nếu sử dụng vốn vay, chi phí vốn mà doanh nghiệp phải chấp nhận khoảng 15-18%/năm, trong khi đó nếu sử dụng vốn cổ phần bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thì doanh nghiệp chỉ phải trả cho cổ đông phần cổ tức, còn số lợi nhuận còn lại vẫn có thể được giữ lại để sử dụng.
Một điểm khác nữa, đó là nếu như sử dụng vốn vay, doanh nghiệp cần phải có các hồ sơ thủ tục theo quy định của ngân hàng, đồng thời việc giải ngân, báo cáo thực hiện, cũng như kế hoạch trả nợ sẽ được ngân hàng theo dõi chặt chẽ.
Trong khi đó nếu huy động vốn từ cổ đông thì chỉ cần có phương án tăng vốn được Uỷ bản chứng khoán chấp thuận, và được cổ đông đồng thuận giá phát hành và góp vốn, còn vấn đề sử dụng nó như thế nào thì doanh nghiệp chỉ cần báo cáo lại cổ đông khi tổng kết năm.
Tính kỳ hạn cũng được các doanh nghiệp cân nhắc, nếu như sử dụng vốn vay thì kỳ hạn của khoản vay là do sự thoả thuận giữa doanh nghiệp và Ngân hàng, tuy nhiên thông thường là kỳ hạn ngắn, còn đối với khoản kỳ hạn dài thì cũng không thể cố định được mức lãi suất.
Còn nếu huy động vốn cổ phần thì doanh nghiệp chỉ cần quan tâm đến việc trả được bao nhiêu cổ tức cho cổ đông hằng năm trong khi nguồn vốn là dài hạn, thậm chí có thể nói là đi suốt theo vòng đời của doanh nghiệp.
Ngoài ra, một doanh nghiệp khi tăng được vốn điều lệ lớn hơn thì được chủ đầu tư chấm “điểm” cao hơn khi tham gia đấu thầu các dự án,… vì vốn điều lệ cũng là một tiêu chí đánh giá quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Vốn huy động: ràng buộc “mềm”
Đứng trên quan điểm vi mô doanh nghiệp chỉ đặt mục tiêu huy động được vốn với chi phí thấp hơn nguồn vốn vay ngân hàng, có kỳ hạn dài hơn, đồng thời không mất quá nhiều thời gian và công sức vào các thủ tục hành chính, đồng thời, nỗ lực đảm bảo việc trả cổ tức không bị ràng buộc về định lượng là tối ưu nhất.
Ngược lại, đứng trên quan điểm vĩ mô toàn xã hội, thì quan trọng nhất là nguồn vốn đó có được sử dụng hiệu quả hay không, nói cách khác là suất sinh lợi của việc sử dụng vốn có hiệu quả không?
Theo thống kê, suất sinh lợi trên vốn bình quân của toàn bộ các doanh nghiệp niêm yết trên 2 sàn chứng khoán HOSE và HNX, đã công bố báo cáo tài chính, trong năm 2009 đạt 16,3%. Một điểm cần lưu ý là trong năm 2009, các doanh nghiệp được Chính phủ hỗ trợ 4% chi phí lãi vay. Do đó, nếu như đưa khoản lãi vay được hỗ trợ này tính đủ vào chi phí vốn của doanh nghiệp thì chắc chắn tỷ suất lợi nhuận còn thấp hơn.
Việc tăng vốn điều lệ cũng là một trong những thông tin mà nhà đầu tư quan tâm, tuy nhiên cũng không phải nhà đầu tư nào cũng có thể phân tích được một cách rõ ràng và đầy đủ về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ví dụ như trường hợp Công ty cổ phần Sông Đà 9.06 ngay khi có thông tin phát hành thêm cổ phần cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 1:2,95 thì cổ phiếu này đã liên tục tăng giá gấp 5 lần trong khi đó suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) từ năm 2006 đến nay chưa vượt 20%.
Tuy việc huy động vốn cổ phần có nhiều ưu thế, nhưng nó cũng đem lại một sức ép rất lớn cho đội ngũ điều hành doanh nghiệp, vì họ phải chịu trách nhiệm trước cổ đông, những người chủ sở hữu công ty, về suất sinh lợi của đồng vốn. Nhưng sức ép đó có thể được một vài doanh nghiệp hóa giải bằng giải pháp rất đơn giản: “…việc vay vốn từ cổ đông cách này sẽ bớt áp lực trả nợ và lãi như vay ngân hàng, nếu có làm ăn thua lỗ thì cổ đông đâu đòi ngay, hay lúc đó trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng êm chuyện.” - như lời một Tổng giám đốc được báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh trích dẫn.
Về mặt lý thuyết, nếu ban điều hành không đảm bảo được suất sinh lợi của đồng vốn huy động thì sẽ bị các cổ đông quyết định vấn đề tồn tại. Tuy nhiên ở các công ty đại chúng Việt Nam, tiếng nói của cổ đông thiểu số không được quan tâm trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp: từ việc tổ chức bộ máy quản lý, đến việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, vấn đề phân chia lợi nhuận làm ra,… Còn nhớ năm ngoái, một số công ty thuộc Tập đoàn Than khoáng sản quyết định chi cho quỹ khen thưởng phúc lợi còn nhiều hơn cổ tức trả cho cổ đông, ý kiến phản đối của cổ đông thiểu số không thể thay đổi quyết định trên do cổ đông Nhà nước chiếm hơn 50%.
Mới đây, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đề nghị sửa đổi, bổ xung Luật chứng khóan sao cho việc tổ chức đại hội cổ đông hàng năm thuận tiện hơn, nhưng trong các kiến nghị cũng chưa thấy có nội dung nào nhằm bênh vực hoặc bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông thiểu số.
“Trên có chính sách thì dưới có đối sách”
Làn sóng tăng vốn trong thời gian qua cũng chỉ là một trong những phản ứng của doanh nghiệp trước những thay đổi “180 độ” của chính sách tiền tệ: từ nới lỏng sang thắt chặt hết sức đột ngột, làm cho nhiều doanh nghiệp, vốn đã yếu về nguồn dự trữ tài chính, không thể chuẩn bị kịp nguồn vốn kinh doanh.
Ông Trịnh Xuân Hà, Tổng Giám đốc Cotecland, cho biết: “Trong năm 2010, công ty cần nguồn vốn khá lớn. Vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng chắc chắn sẽ không đủ nên để giải quyết bài toán vốn chỉ có cách niêm yết cổ phiếu lên sàn mới khả thi”. Tại đại hội cổ đông ngày 25/3, Công ty Cotecland đã thông qua việc tăng vốn điều lệ lên bảy lần: từ hơn 21 tỉ lên 150 tỉ đồng, bằng việc phát hành hơn 12,8 triệu cổ phiếu.
Một chính sách tiền tệ rõ ràng là điều cần thiết cho cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, cũng như một số nhà phân tích bình luận: các doanh nghiệp vừa vượt qua cơn khủng hoảng mà lại rút đi những hỗ trợ một cách đột ngột thì cũng tương tự như người bệnh vừa qua cơn nguy kịch bị rút đi bình ôxy.
Mặc dù khối lượng cổ phiếu tăng vọt cùng với kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ tạo gánh nặng hơn cho Ban điều hành doanh nghiệp. Về phía các cổ đông cũng không có chọn lựa nào khác là tiếp tục góp vốn bằng cách nhận cổ phiếu thưởng vì: (i) nếu không tiếp tục góp vốn thì sẽ bị giảm tỷ lệ sở hữu xuống tương ứng; (ii) nếu không tham gia góp vốn thì sẽ bị thiệt do cổ phiếu đã bị “pha loãng” làm thị giá đã bị giảm tương ứng.
Vì thế, có thể nói chính việc thay đổi chính sách tiền tệ quá nhanh đã khiến cho các doanh nghiệp không phản ứng kịp thời và tất cả các chủ thể “bị ép” vào tình huống tăng vốn này.
Hạnh Bình
TUẦN VIỆT NAM
|