Định vị Trung Quốc trên bản đồ toàn cầu
Định vị Trung Quốc (TQ) trên bàn cờ thế giới không thể chỉ nhìn cục bộ vì sẽ chả khác nào như thầy bói xem voi. Vấn đề này càng thêm phức tạp vì thế giới vừa trải qua một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng.
LTS: Kinh tế thế giới có hồi phục được hay không, trong bao lâu, với thay đổi cán cân quyền lực trên bàn cờ thế giới thế nào? là những câu hỏi cần giải đáp. Nhân dịp Tổng thống Mỹ Barack Obama thăm Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Tuần Việt Nam gửi tới độc giả bài phân tích thể hiện góc nhìn riêng của GSTS Nguyễn Mạnh Hùng - Đại Học Laval (Québec, Canada) với đề tựa: Định vị Trung Quốc trên bản đồ toàn cầu. Nhìn TQ trong tổng thể những quan hệ kinh tế và chính trị ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, tác giả viết rằng, những vấn đề an ninh quốc tế (trong đó Biển Đông), tỷ giá hối suất đồng Nhân dân tệ, chính sách phát triển dựa trên xuất khẩu… chắc sẽ có trong nghị trình giữa hai nước. Không có tham vọng giải đáp, bài viết chỉ nêu một số sự kiện với hy vọng làm sáng tỏ phần nào những vấn đề đang được quan tâm đặc biệt.
Trầm thoái kinh tế 2008-2009 và sự hiện diện của Trung Quốc
Tháng 10/2008, tin công ty tài chính Lehman Brothers trên đà phá sản đã đẩy cuộc trầm thoái mấp mé bờ vực một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Theo bước Lehman Brothers là Goldman Sach, Merrill Lynch, AIG… Tại Âu châu, tình hình các nhà băng và công ty tài chính không khá hơn.
Những nước công nghiệp cao ở mọi nơi đều đứng trước tình thế "cạn nguồn" tín dụng - thứ mỡ bôi trơn cho cỗ máy sản xuất kinh tế vận hành. Thế là "ông" Nhà Nước khối tư bản chủ nghĩa Mỹ-Âu xưa nay tuân thủ qui luật không (hoặc ít) can thiệp vào thị trường đành phải ra tay. Một là cho vay (tức phải in thêm tiền) và bảo trợ những công ty tài chính; và hai là bung những gói kích cầu ra để bù trừ cho sự giảm mức tiêu thụ gây ra bởi kinh tế đình trệ, nạn thất nghiệp, sự suy giảm tín dụng trong tiêu dụng.
Đầu năm 2009, quả bong bóng trong thị trường chứng khoán xì hơi, độ tụt giá những tích sản chóng mặt, và người ta đã hình dung ra nguy cơ lặp lại cuộc khủng hoảng toàn cầu 1929. G7 rồi G20, họp để cứu ứng nền kinh tế thị trường nhưng không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Kinh tế gia Roubini, và nhà tài chính Weiss…đều đã tiên liệu về tình trạng "bóng vỡ" này cách đây từ 2-3 năm.
Ở Mỹ, chỉ trong 4 tháng, Bernanke của Cục dự trữ liên bang đã tăng lượng cung tiền tệ gấp 2 lần, bằng lượng tăng kể từ thế chiến 2 cho đến ngày Lehman Brothers gặp khó khăn. Thâm thủng tài chính của chính phủ liên bang Mỹ lên đế 1400 tỉ đôla, gấp 3 lần thâm thủng năm trước. Hiện nay, khoản nợ của Mỹ lên trên 12 ngàn tỉ, và có khoảng 104 ngàn tỉ công trái cần bảo chứng. (Ước tính dân số Mỹ hiện nay là 307.296.760 người, như vậy mỗi người dân Mỹ chia sẻ khoản nợ trên ít nhất là vào khoảng 39.000 đôla).
Chủ nợ lớn nhất của Mỹ là Trung Quốc với khoảng 870 triệu công trái trong tay. Tính thêm cả dự trữ đôla, TQ nắm khoảng 2100 triệu. Nhưng vị chủ nợ lớn nhất thế giới của Mỹ có vấn đề của chủ nợ - xiết nợ như thế nào? Trong khi với lượng cung đôla, chắc chắn sẽ lạm phát: giá trị đồng đôla giấy so với những mặt hàng thật (dầu, vàng, sắt, nhôm….) sẽ giảm. Khi Tổng thống Nixon cho thả nổi đôla năm 1972, giá một ounce vàng từ 35 đôla lên 60 đôla. Ngày nay, 37 năm sau, giá vàng là 1000 đôla/ounce - tức là tăng 300 lần. Và đôla vẫn là tiền thanh khoản trong thương mại quốc tế, giá trị khống chế bởi chính sách tiền tệ ở Washington. Như vậy, chủ nợ buộc phải nhấp nhổm như ngồi trên lửa là điều dễ hiểu.
Ở đây, xin nói thêm về chính sách tiền tệ TQ. Vì đặt trọng tâm lên xuất khẩu, hàng TQ rẻ nếu đồng Nhân dân Tệ thấp so với ngoại tệ. Nhiều lần, Mỹ yêu cầu TQ tăng giá đồng Nhân dân Tệ, bỏ chính sách kìm giá để giảm áp lực cán cân nhập siêu. Bốn năm trở lại đây, TQ thả nổi rất chừng mực đồng Nhân dân Tệ, nhưng vẫn duy trì một mức sai lệch kiểm soát được.
Nay, khi mức cầu kinh tế Mỹ (và Âu Châu) suy giảm, TQ lại càng không có lý do tăng giá đồng Nhân dân Tệ, vì làm thế thì không thể tiêu thụ được hết sản phẩm trên thị trường. Hơn nữa, đồng Nhân dân Tệ tăng, tức giá trị đôla giảm. Và giá trị món nợ của ông chủ nợ hẳn giảm theo. Nhưng nhìn lượng cung đôla như nói trên, giá trị của nó giảm trong tương lai là tất yếu. Đề nghị mới đây về một rổ ngoại tệ (Đô Mỹ, Bảng Anh, Euro, Nhân dân Tệ, Rúp Nga, và vàng) thay thế cho bản vị đô la Mỹ thì cần thời gian mới có khả năng thành hiện thực.
Rồng hiện nguyên hình
Với lượng đôla khá lớn nhưng giá trị bấp bênh ngoài tầm kiểm soát, TQ không còn là "tàng Long" như lời Đặng Tiểu Bình khuyên các hậu bối - là chớ kích động nỗi lo của Washington khi "con Rồng thức giấc". Con Rồng đó nay quẫy đuôi. Ở Phi châu, nơi tài nguyên thiên nhiên còn nhiều, vẫn còn 'dị ứng' với châu Âu - những chủ nhân ông thời thuộc địa chưa mấy xa xôi. TQ nhìn thấy những cơ hội khổng lồ tại châu lục này. Kể từ năm 2001 tới nay, tổng thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi đã tăng gấp 10 lần. Riêng năm ngoái, giá trị thương mại là 107 tỉ đôla. Trong suốt 10 năm qua, TQ ve vãn bằng cách viện trợ và cho vay để xây dựng hạ tầng cơ sở, phô trương nghĩa vụ quốc tế lấy tiếng, "bôi trơn" tầng lớp lãnh đạo, bán khí giới và luôn ủng hộ một sự "ổn định" - nhất là ổn định những thể chế như ở Darfur.
Gần đây, TQ đã xây dựng được mối quan hệ "mật thiết" với chính quyền Zimbabwe, Congo, Sudan. Ba năm qua, TQ ký kết thuê dài hạn đất nông nghiệp, khai thác tài nguyên địa chất, xây đập thủy điện, kiểm soát nguồn nước… và chuyển sang châu Phi mô hình cơ xưởng và một đội ngũ công nhân TQ khá đông, có nguồn nói số này lên đến hàng trăm ngàn. Mối lo ngại về hiện tượng di dân của Trung Quốc tại châu lục này là hiện hữu. Ở Algeria, tranh chấp xung đột giữa công nhân TQ và người bản địa đã xảy ra hàng loạt.
Người Châu Phi bắt đầu e ngại "thực dân mắt xếch". Trả lời một phóng viên, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói : “Từ lâu rồi đã có các cáo buộc là Trung Quốc tới châu Phi để khai thác tài nguyên thiên nhiên của châu Phi và thực hiện chính sách thực dân mới. Cáo buộc này theo tôi là hoàn toàn không có cơ sở. Ai là người thực sự đặt ra những câu hỏi này? Có đúng là các quốc gia châu Phi, hay lại là phương Tây đang dõi theo một cách lo ngại?”.
Tuy nhiên, không chỉ có phương Tây đặt ra câu hỏi, mà một số chính trị gia cao cấp của châu Phi cũng lo ngại. Bộ trưởng Ngoại giao Nigeria Bagudu Hirse cho rằng TQ đang ném tiền vào các thể chế tham nhũng và đàn áp tại châu Phi. Bagudu Hirse cho biết: "Chúng tôi chấp nhận những gì Trung Quốc đang làm. Chúng tôi chào đón sự đầu tư của họ. Nhưng họ cũng phải hiểu rằng chúng tôi rất nhạy cảm trước các vấn đề dân chủ và cai trị tốt. Chúng tôi không thể nào không bắt đầu lo lắng chuyện bị áp đặt cấm vận đối với Guinea hay Niger vì tội cầm quyền tồi tệ trong khi họ đi sau lưng và thực hiện một số hợp đồng”.
Một dân biểu độc lập của Ai Cập là Mustafa al-Gindi coi đây là cuộc chiến giữa phương Đông và phương Tây để giành lấy chiến lợi phẩm từ châu Phi. Ông cho rằng các mối quan hệ cũ tại châu Phi đang vấp phải thử thách: “Cho dù họ nói gì đi chăng nữa, thực tế rõ ràng là Trung Quốc không đến châu Phi chỉ với các kỹ sư hay khoa học gia. Họ đến cùng với các nông dân. Đây là chủ nghĩa thực dân kiểu mới...”
Năm nay, Liên Hiệp Quốc đã cảnh báo việc cho thuê đất dài hạn khiến nông phẩm có thể trở thành một loại khí giới "bỏ đói" người cho thuê. Đặc biệt, việc TQ kiểm soát đầu nguồn những con sông lớn cũng đặt ra vấn đề an ninh ở hạ lưu và lượng nước cung cấp cho nông nghiệp. Đây là những áp lực chính trị "nặng ký" khi TQ cần uốn nắn những quốc gia khác vào con đường mình muốn. Tương tự, với những quốc gia vùng Đông Nam Á, những đập nước trên đất TQ ở thượng nguồn sông Mekong, sông Hồng …đều là những điểm "chẹt" sinh tử có thể xử dụng khi TQ cần áp đặt.
TQ không chỉ dùng "quyền lực mềm" với châu Phi hay với những nước Đông Nam Á mà còn bỏ ra hàng tỉ đôla mua lại cổ phần của những đại công ty ở Mỹ, Tây Âu, Úc... gặp khó khăn kinh tế. Phải nói, đây là một cơ hội hiếm hoi, và nắm cổ phần trong một nền kinh tế toàn cầu tuân thủ những qui định quốc tế còn hơn là giữ đôla mà giá trị thật bấp bênh.
Nhưng ở khâu này, TQ gặp sự dè dặt đáng kể vì các nước tiền tiến không muốn bị kiểm soát những khâu kinh doanh "chiến lược" hay để TQ "xía" vào chi phối và tìm thông tin kỹ thuật. Và cần tài nguyên thiết yếu để phát triển, TQ tìm cơ hội hợp doanh khai khoáng. Chiến lược này cũng chẳng dễ ăn: chúng ta nhớ vụ đụng chạm giữa TQ và Úc với những cáo buộc làm gián điệp kinh tế dẫn đến việc phải hủy hợp đồng đã ký kết giữa Chinalco và Rio Tinto mà theo đó, TQ mua 9% cổ phần với giá 14 tỉ đôla. Năm 2008, China Petroleum Chemical Corporation Tập đoàn Dầu khí và Hóa học Trung Quốc - tập đoàn dầu khí lớn thứ hai của thế giới, chỉ sau ExxonMobil - cũng đã thất bại trong việc mua 20% số vốn của Repsol YPF của Tây Ban Nha. Năm 2005, China National Offshore Oil Corp. (CNOOC) đã phải rút lại đề nghị mua công ty Mỹ Unocal với giá 18,5 tỉ USD, vì đề nghị đó đã gây ra các phản ứng chống đối tiêu cực ở Mỹ.
GSTS Nguyễn Mạnh Hùng
tuần việt nam
|