"Dòng chảy" của luật đang ... chậm dần
Sức mạnh quản lý của bộ máy chính quyền nằm ở hệ thống luật pháp của nó hoàn thiện, hay không hoàn thiện, hiệu quả, hay không hiệu quả.
Hoàn thiện là ở chỗ quy định ấy phải đảm bảo thông thoáng cho DN hoạt động. Đồng thời ngăn chặn được những biểu hiện gian lận. Hiệu quả là ở chỗ phải xây dựng, hình thành được nội lực mạnh mẽ cho DN.
Luật... làm khó thực tế
Mấy ngày gần đây, giám đốc một DN tại Hải Phòng lo lắng cho lô hàng đầu tiên XK đi nước ngoài. Lý do là vì trong khi đối tác nước ngoài không yêu cầu DN phải đạt một số thành phần trong sản phẩm XK, thì cơ quan quản lý lại yêu cầu phải có bằng được.
Tại hợp đồng XK, đối tác nước ngoài của DN này chỉ yêu cầu sản phẩm dolomit có hàm lượng MgO phải trên 20%, hàm lượng chất còn lại (CaO) không cần quy định. Để XK loại khoáng sản này, DN cần đáp ứng điều kiện quy định tại Thông tư 08/2008/TT-BCT hướng dẫn XK khoáng sản. Phụ lục 2 của thông tư quy định hàm lượng MgO trong quặng dolomit XK phải lớn hơn hoặc bằng 17%, hàm lượng CaO phải lớn hơn hoặc bằng 34%. Khổ nỗi, tại chứng thư giám định, hàm lượng MgO đã... lớn hơn 20%, nhưng hàm lượng CaO trong dolomit XK của DN này lại nhỏ hơn 34%. Và vì thế, cơ quan Hải quan đã từ chối làm thủ tục XK cho DN với lý do là vì hàm lượng CaO không đáp ứng đủ yêu cầu. Tuy nhiên, ở dạng tinh khiết, khoáng sản dolomit (MgCa (CO3) 2) gồm hai thành phần CaCO3 + MgCO3 chiếm trên 98%. Bột dolomit được ứng dụng trong rất nhiều ngành sản xuất như thủy sản, kính, phân bón... và nếu hàm lượng MgO quy đổi trong bột dolomit đạt trên 20% thì đó là bột chất lượng tốt.
Theo thông lệ thương mại quốc tế, đa phần các DN có nhu cầu bột dolomit chỉ cần sử dụng một trong hai chất MgO hoặc CaO mà không quan tâm tới các thành phần còn lại. Từ đây sẽ thấy, quy định “cứng”, yêu cầu cả hai hàm lượng CaO trong bột dolomit XK buộc phải đạt 34% trở lên (tương đương 60,7 % với CaCO3), và hàm lượng MgO phải đạt 17% (tương đương MgCO3 chiếm 35,7%) là không hợp lý, không phù hợp. Có nghĩa, yêu cầu của Thông tư 08/2008/TT-BCT đã đẩy DN vào thế... không thể đáp ứng nổi yêu cầu của quy định. Trong khi đó lại không là yêu cầu bắt buộc trong thương mại quốc tế.
Nhưng cuối cùng DN này vẫn XK được. Những DN vẫn đang XK đã chia sẻ kinh nghiệm: “tác động” với người kiểm định chất lượng, làm sao để cả hai thành phần đều “đủ” là... ổn. Vậy là, hiệu quả của Thông tư 08/2008/TT-BCT lại là ở chỗ buộc DN phải nói dối, thay vì chấp hành đúng với mong muốn của người ban hành.
“Lách”... thành công ?
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, điều 12 quy định: “Người bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản ... chậm nhất là bảy ngày đối với động sản... trước ngày mở cuộc bán đấu giá tài sản”. Và: “... phải thông báo công khai ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ba ngày trên phương tiện thông tin đại chúng của trung ương hoặc địa phương về việc bán đấu giá...”. Phải “hiểu” thế nào về hai yêu cầu này ?
Nếu hiểu chính xác, thì người tổ chức đấu giá phải đăng tin trước thời hạn kết thúc nhận hồ sơ tham gia đấu giá tối thiểu là 7 ngày với lần đăng tin đầu tiên. Và lần thứ 2 phải đăng tin vào đúng 3 ngày sau đó. Tức là, thời gian tối thiểu để người có nhu cầu tham gia đấu giá có thể nộp hồ sơ tham gia là 4 ngày trước thời hạn kết thúc nhận hồ sơ đấu giá theo quy định.
Thế nhưng, tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng như web site, báo chí... có thể thấy nhan nhản thông tin đấu giá tài sản rất nhiều trường hợp trong đó đã đăng tin cận ngày kết thúc nộp hồ sơ tham gia đấu giá. Vì cận ngày như thế, thì sẽ có không ít DN có nhu cầu lỡ mất cơ hội mua hồ sơ để đăng ký tham gia đấu giá. Và nếu cộng cả những yêu cầu, nhiều khi rất oái oăm của người có tài sản, thì cơ hội tham gia đấu giá của không ít DN gần như bằng không.
Ưu đãi đầu tư, hạn chế vay ngoại tệ ?
Điểm 2, khoản 1, mục A thuộc Danh mục Ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định “Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại đặc biệt, sắt xốp, phôi thép” là được hưởng các ưu đãi về đầu tư quy định trong những điều trước đó của nghị định. Căn cứ vào quy định này và nhiều quy định ưu đãi, khuyến khích thu hút đầu tư khác, đã có rất nhiều dự án sản xuất phôi thép được xây dựng và đi vào hoạt động. Thế nhưng, thời điểm hiện tại đang bộc lộ một thực tế, Nhà nước khuyến khích đầu tư sản xuất phôi thép, nhưng trong khi DN sản xuất phôi trong nước đang bị thiếu ngoại tệ để nhập khẩu thép phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất thì các ngân hàng tìm mọi cách từ chối cấp ngoại tệ cho DN NK thép phế với lý do hoạt động NK thép phế không là đối tượng được ưu tiên bảo đảm, cung ứng ngoại tê (theo Công văn số 4941/NHNN-QLNH về chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại tệ). Trước đây, các DN vẫn có thể tìm nguồn ngoại tệ từ thị trường tự do để chuyển qua ngân hàng thanh toán các khoản mua phế liệu.
Nhưng do sự siết chặt quy định với việc mua bán ngoại tệ mà việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ này gần như không còn, cộng với việc không là đối tượng được ưu tiên bảo đảm, cung cấp ngoại tệ, mà “cửa” tìm ngoại tệ để nhập khẩu thép phế sản xuất phôi của DN gần như không còn.
Văn bản luật đang ngày càng được Nhà nước điều chỉnh, ban hành nhiều hơn để phục vụ hoạt động của DN. Nhưng vấn đề là ở chỗ, hiệu quả của từng văn bản ấy tác động thế nào tới hoạt động của DN thì vẫn chưa được quan sát, tổng kết đúng như yêu cầu với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. “Dòng chảy” của luật, vì thế, đang bị chậm dần bởi những lý do, hiện tượng không bình thường. Vậy thì liệu có sự thay đổi nào để nâng cao hiệu quả ấy không ?
Quốc Dũng
Diễn đàn Doanh nghiệp
|