2 năm thi hành Luật DN và Luật Đầu tư: Nhiều tín hiệu vui
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, Tổ Công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư vừa hoàn thành Báo cáo sơ kết 2 năm thi hành Luật DN và Luật Đầu tư. DĐDN đã có cuộc trao đổi với Luật gia Trần Hữu Huỳnh - Trưởng Ban pháp chế VCCI với tư cách là thành viên Tổ Công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư.
- Nhìn lại 2 năm thi hành Luật DN và Luật Đầu tư, ông đánh giá như thế nào về khung khổ pháp luật trực tiếp tác động đến hoạt động đầu tư và kinh doanh của DN?
Luật DN và Luật Đầu tư ban hành năm 2005 và có hiệu lực từ 1/7/2006. Trong đó, Luật DN 2005 là bước nối tiếp của Luật DN 1999 và có sự phát triển theo hướng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi hơn nữa cho DN trong việc đăng ký kinh doanh, quản trị DN và cải thiện môi trường pháp lý liên quan đến các ngành nghề mà DN được phép hoạt động. Còn Luật Đầu tư, đây là đạo luật đầu tiên thống nhất các quy trình, thủ tục, điều kiện để đầu tư, được áp dụng chung cho tất cả các thành phần kinh tế tại Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, sau khi hai luật này được Quốc hội thông qua, Chính phủ và các bộ ngành cũng đã ban hành một loạt văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các luật này. Thực tế cho thấy, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói trên đã tương đối khẩn trương và khá cụ thể. Hệ quả là việc đăng ký kinh doanh và ra đời các DN mới, số vốn đăng ký đầu tư của các DN có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đã tăng lên đáng kể.
Ngoài ra, về phía cộng đồng DN và các tổ chức khác có liên quan thông qua Tổ Công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư và các cơ quan quản lý cũng đã có kênh thông tin kịp thời để kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Bằng chứng rõ rệt nhất là một số địa phương đã chủ động, sáng tạo trong việc áp dụng các quy định trong đăng ký kinh doanh, giảm thời gian xuống còn 5 ngày trong khi luật quy định là 10 ngày.
Trên cơ sở đó, liên bộ đã thống nhất ban hành thông tư liên tịch theo xu hướng một cửa liên thông. Dẫn chứng này cho thấy đã có sự phối hợp chủ động giữa cơ quan quản lý và nhà đầu tư trong việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng hơn.
- Như vậy, hiệu quả của hai luật này trong việc tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho DN đã rõ. Tuy nhiên, còn không ít lời phàn nàn của DN về những vướng mắc hoặc sự không rõ ràng của hai luật này, thưa ông?
Qua 2 năm thi hành hai luật, theo quan sát của tôi, số lượng DN thành lập tăng đáng kể, vốn đăng ký đầu tư tăng, giải quyết được nhiều công ăn việc làm... góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của Việt Nam.
Đặc biệt, Luật Đầu tư có hiệu ứng tích cực ở cả hai khía cạnh. Thứ nhất, đầu tư trong nước tăng thông qua việc thành lập mới các DN và việc mở rộng quy mô, chuyển giao khoa học công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, khả năng cạnh tranh tăng lên... của các DN đang hoạt động. Đối với đầu tư nước ngoài, trong tình trạng khó khăn chung trên toàn thế giới, đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đột biến về số lượng. Môi trường kinh doanh nói chung đã được cải thiện đáng kể, biểu hiện qua chỉ số PCI do VCCI tiến hành hàng năm (từ 2005-2007), chỉ số về mức độ hài lòng của DN ở tất cả các địa phương qua các năm đều được cải thiện.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số vướng mắc cụ thể. Đó là các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các điều khoản ở hai luật này, mặc dù được đánh giá là ban hành kịp thời nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Có một số vướng mắc trong hai luật này mà đến nay chúng ta vẫn chưa giải quyết được. Đặc biệt là trong Luật Đầu tư, các quy định của luật này vẫn chưa rõ ràng, chưa hợp lý, gây phức tạp cho nhà đầu tư. Các thủ tục về đầu tư, thành lập DN, thủ tục xây dựng... còn chồng chéo; chất lượng đầu tư còn chưa cao...
- Vậy quan điểm của ông về hướng xử lý các vướng mắc trên như thế nào?
Những vấn đề tự thân từ hai luật, chúng ta đã, đang và sẽ phải tìm và kiến nghị những giải pháp tháo gỡ. Đặt hai luật này trong mối quan hệ với các luật khác, chúng ta nhận thấy cần có những cải cách triệt để trong cách thức tổ chức làm luật tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải có quy hoạch phát triển, đảm bảo tăng trưởng đi liền với phát triển bền vững. Có như vậy mới có được những dự án đầu tư thực sự chất lượng.
Sắp tới, chúng ta cũng phải tính đến câu chuyện đầu tư của các DNNN theo hướng đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng kể cả trong những lĩnh vực mà hiện nay DNNN đang làm. đồng thời thu hẹp những lĩnh vực mà khối dân doanh, các nhà đầu tư khác có thể đảm nhiệm để đảm bảo khu vực này là đối tượng tiên phong, chủ lực trong việc tạo ra hệ thống hạ tầng cơ sở với chi phí thấp nhất.
Sau 10 năm, kể từ khi luật DN 1999 được ban hành đến nay, nhìn lại thì chúng ta thấy chất lượng của đội ngũ DN Việt Nam chưa được tốt, khả năng cạnh tranh trên thương trường còn hạn chế, quản trị DN yếu, khả năng hấp thụ vốn... còn nhiều hạn chế. Vì vậy, ngoài việc tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thích hợp đối với những DN này, chúng ta phải nâng cao năng lực của các DN thông qua hỗ trợ của các hiệp hội, tổ chức để họ nâng cao năng lực quản trị, điều hành DN theo hướng mở, có khả năng tiếp nhận luồng vốn, bảo vệ lợi ích của các cổ đông...
- Xin cảm ơn ông.
Tuyết Nhung thực hiện.
diễn đàn doanh nghiệp
|