Niêm yết trên TTCK quốc tế: Vì sao khó?
Huy động vốn từ thị trường nước ngoài vốn không là một khái niệm mới mẻ với các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Tâm lý chờ đợi các luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường tài chính VN khiến các DN VN vẫn chưa thực sự chủ động trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ vốn bằng cách vươn ra thị trường quốc tế.
Nhiều DN có tham vọng rất lớn, nhưng những hạn chế về mặt thủ tục pháp lý, việc tuân thủ các chuẩn mực tối thiểu cũng khiến họ ngần ngại.
Bài 1
Phát hành trái phiếu quốc tế: Hoàn toàn dựa vào Chính phủ
Thành công trong đợt phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra quốc tế thời điểm cuối năm 2005 để tập trung cho các dự án của Vinashin, sắp tới đây, Chính phủ lại dự định huy động thêm 1tỉ USD từ kênh này để phân bổ cho vài dự án lớn.
Thực tế, DN (kể cả các DN lớn) vẫn chưa thể tự mình huy động vốn từ phát hành trái phiếu quốc tế. Lượng vốn nợ huy động từ thị trường quốc tế thường có quy mô lớn, đòi hỏi DN đó được đánh giá là thực sự tin cậy, lành mạnh về tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định và tăng trưởng, có khả năng trả nợ cao.
Chúng ta có những DN hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu đó, nhưng chưa hề có một tổ chức định mức tín nhiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế đánh giá và xếp hạng các DN lớn của VN, đưa DN VN đến với NĐT nước ngoài.
Ra "sàn ngoại": 4 rào cản
Niêm yết trên sàn GDCK nước ngoài là câu chuyện của năm 2006, với sự kiện Cavico - Cty đầu tiên niêm yết trên TTCK Mỹ thông qua một thương vụ sáp nhập ngược (5.2006), rồi ATIP niêm yết trên sàn chứng khoán NYSE - Euronext tại Pháp (7.2006), 3 quỹ đầu tư của Vina Capital đã tham gia giao dịch tại thị trường đầu tư lựa chọn của TTCK London (LSE) - AIM trong năm 2006.
Trong năm 2007, ngay cả khi có một loạt các lời mời chào từ phía các trung tâm GDCK của Malaysia, Singapore, Hồng Kông với rất nhiều ưu đãi và thuận lợi, cánh cửa đã rộng mở ở các sàn GDCK khu vực, nhưng các DN VN vẫn "im lìm". So với Trung Quốc, chúng ta đang bước những bậc thang đầu tiên mà nước láng giềng từng bước qua, cũng gặp những khó khăn tương tự như họ.
Thứ nhất, đó là sự khác nhau về chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán VN, mặc dù chuẩn mực kế toán VN (VAS) cũng xây dựng dựa trên hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế ( IAS).
Khác biệt lớn nhất là theo IAS thì giá trị tài sản được ghi nhận theo giá thị trường, còn theo VAS giá trị tài sản lại được ghi nhận theo nguyên tắc giá gốc; do đó, các DN VN - đặc biệt là các DN quốc doanh - thường được định giá thấp hơn giá thị trường khi tiến hành CPH liên quan đến vấn đề sở hữu và phạm vi quyền sử dụng đất tập thể, đất của Nhà nước...
Một số khoản mục khác hạch toán không theo quy tắc, hay chưa thực hiện công khai trong khai báo thuế, thiếu sự minh bạch về tình hình tài chính của Cty - trong khi đây là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất khi tiếp xúc với TTCK ở các nước phát triển.
Vấn đề này cần được giải quyết thông qua việc dần dần xây dựng một chuẩn mực kế toán phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, kết hợp với việc lựa chọn các tổ chức kiểm toán và tư vấn chuyên nghiệp.
Thứ hai, liên quan đến đặc điểm của các DN VN là các vấn đề về tính liêm chính của ban giám đốc, kiểm soát nội bộ, năng lực quản trị... còn kém - một hạn chế lớn để được các NĐT ngoài nước chấp nhận.
Trong khi đó, DN còn phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về vốn và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh như quy định phải có lợi nhuận trước thuế tích luỹ ít nhất 7,5 triệu USD trong 3 năm tài chính gần nhất khi niêm yết trên TTCK Singapore, kèm theo các quy định về quản trị khác...
Thứ ba, DN tham gia niêm yết trên TTCK quốc tế - nhất là một số DN hoạt động trong các lĩnh vực còn nhiều sự bảo trợ của Nhà nước như dệt - may, nông - thuỷ hải sản, năng lượng... phải chấp nhận mất đi những ưu đãi về thuế quan hay phải đáp ứng những yêu cầu về sở hữu trí tuệ, các trách nhiệm pháp lý về sản phẩm và hợp đồng bảo hiểm, hiệu quả giải ngân và chi trả các khoản nợ, phải có tổ chức bảo trợ (TTCK Hồng Kông)...
Thứ tư, rất quan trọng, là các rào cản về pháp lý khi DN thực hiện niêm yết trên TTCK nước ngoài. VN gần như vẫn chưa có các văn bản pháp lý và tiêu chuẩn niêm yết nước ngoài.
Không kể đến những hạn chế khi DN phải làm quen và tuân thủ luật pháp của nước sở tại - vốn có nhiều điểm khác biệt với pháp luật VN, DN còn gặp rất nhiều khó khăn về các loại giấy phép, chính sách kiểm soát ngoại hối - chuyển ngoại tệ ra vào khi phát hành CP hoặc chi trả cổ tức, quy định về tỉ lệ nắm giữ của NĐTNN.
Ví dụ, hiện có một số DN VN đáp ứng được các yêu cầu để niêm yết trên TTCK như FPT, KDC, VNM, STB... thì lại vướng quy định về "room" của NĐTNN, do đây là những CP được các NĐTNN ưa thích nên gần như đã hết "room" - muốn đưa cổ phiếu niêm yết ra nước ngoài (tối thiểu 20% số CP - theo quy định của Singapore) cũng rất khó, đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn.
lđ
|