Nghịch lý trong việc huy động và cho vay của ngân hàng?
Nghịch lý này được thể hiện ở chỗ huy động thì khó khăn, còn cho vay thì nhu cầu rất cao. Khó vay trong việc huy động khác hẳn với cùng kỳ các năm trước.
Thông thường vào đầu các năm, lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong lưu thông thường rất nhiều, do các nhà kinh doanh thu hồi được sau dịp Tết Nguyên đán chưa đưa vào kinh doanh bởi "tháng giêng là tháng ăn chơi"; do các khoản lương, thưởng, mừng tuổi... của nhiều người từ cuối năm trước được dành dụm theo tâm lý "tích cốc phòng cơ" để phòng ngừa rủi ro hoặc chi tiêu cho những nhu cầu trong năm tới hoặc với quan niệm tiền phải đẻ ra tiền, đồng tiền giữ trong người là đồng tiền chết.
Trong các kênh đầu tư thì gửi tiết kiệm vào các ngân hàng thương mại là kênh đầu tư truyền thống, quen thuộc, phù hợp với lượng tiền lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi khi cần thiết có thể thu hồi được ngay. Vì thế tốc độ tăng lượng vốn huy động ở các ngân hàng so với cùng thời điểm năm trước khá cao, lên đến mấy chục phần trăm, so với thời điểm cuối năm trước cũng lên đến hàng chục phần trăm!
Từ cuối năm ngoái đến nay, tình hình lại hoàn toàn ngược lại. Mức lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại không những cao hơn mức đã cao lên từ cuối năm trước (kỳ hạn 3 tháng phổ biến từ 7,8 đến 8,5%/năm, 6 tháng từ 7,8 đến 8,88%/năm, 12 tháng từ 8,4 đến 9,84%/năm), mà còn có nhiều hình thức khuyến mãi hấp dẫn khác. Mặc dù vậy, tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP.HCM tính đến cuối tháng 2.2007 đạt khoảng 303,7 nghìn tỉ đồng, chỉ tăng 0,8% so với một tháng trước và tăng 6,4% so với cuối năm 2006, trong khi những tháng cuối năm 2006 thường tăng bình quân tới 23%/tháng.
Trong khi vốn huy động gặp khó khăn và tăng chậm thì nhu cầu vay vốn từ ngân hàng thương mại của người dân lại rất cao. Lý giải nghịch lý trên, các chuyên gia đã đưa ra nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất và suy đến cùng là một lượng vốn trong lưu thông đã được đầu tư vào thị trường chứng khoán. Giá trị giao dịch được khớp lệnh bình quân một ngày tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM lên đến trên dưới 1.000 tỉ đồng; tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng lên đến trên dưới 400 tỉ đồng và một lượng vốn không nhỏ được giao dịch trên thị trường không chính thức (phi tập trung, còn được gọi là OTC).
Tổng giá trị vốn hóa thị trường đã lên đến 40% GDP, tương đương với khoảng gần 400 nghìn tỉ đồng, tăng khoảng 175 nghìn tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2006. Như vậy, khác với cùng kỳ các năm trước, phần lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được các nhà đầu tư ôm bỏ vào thị trường chứng khoán.
Trong những tháng đầu năm nay, "sức nóng" của giá chứng khoán đã hút thêm một lượng vốn lớn. Do "say" lợi nhuận, nhiều nhà đầu tư không ngần ngại đem tải sản (nhà ở, bất động sản, giấy tờ có giá trị, thậm chí cả cổ phiếu...) đến ngân hàng thương mại cầm cố để vay vốn mua thêm cổ phiếu. Chẳng thế mà từ khá sớm Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những cảnh báo các ngân hàng thương mại phải quan tâm đến việc kiểm tra trước và sau mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng.
Đây cũng là cảnh báo khẩn cấp, bởi nếu một số nhà đầu tư chứng khoán gặp rủi ro thì chẳng những gây khó khăn cho việc cân đối nguồn vốn của ngân hàng thương mại, mà còn làm cho nợ xấu, nợ quá hạn gia tăng, thậm chí có ngân hàng thương mại coi thường cảnh báo trên còn bị nghiêng ngả theo!
Thanh niên
|