Doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán đang làm ăn ra sao?
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến tiếp tục giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam những năm tới. Với các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán Việt Nam, bức tranh hoạt động trong những năm qua có gì?
Hoạt động niêm yết chững lại từ năm 2017, các gương mặt cũ thiếu sức hút
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 10 doanh nghiệp FDI; trong đó, 6 doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) gồm: Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (TYA), Công nghiệp Gốm sứ Taicera (TCR), Mirae (KMR), Thành Thành Công - Biên Hòa (SBT), Everpia (EVE), Siam Brothers Việt Nam (SBV); 1 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) là Công nghiệp Tung Kuang (TKU); 3 doanh nghiệp giao dịch trên thị trường UPCoM gồm Quốc tế Hoàng Gia (RIC), Gạch men Chang Yih (CYC), Thực phẩm Quốc tế (IFS).
CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa tiền thân là Công ty TNHH Mía Đường Bourbon Tây Ninh. Công ty thành lập năm 1995, là liên doanh giữa Tập đoàn Bourbon (Pháp), Liên hiệp Mía Đường II và Liên hiệp Mía Đường Tây Ninh, vốn đầu tư 95 triệu USD. Đến năm 2000, Mía Đường Bourbon Tây Ninh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài sau khi 2 đối tác Việt Nam rút lui.
Năm 2007, Tập đoàn Bourbon đã chuyển nhượng một phần sở hữu và chính thức niêm yết cổ phiếu lên HOSE từ ngày 25/02/2008 với mã SBT.
Năm 2013, Công ty đổi tên thành CTCP Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh. Đến năm 2016 thì hoàn tất thương vụ sáp nhập với Đường Biên Hòa và đổi tên thành CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa. Tính đến 31/12/2024, SBT có vốn chủ sở hữu hơn 7,621 tỷ đồng, 2 cổ đông lớn là CTCP Đầu tư Thành Thành Công (Đầu tư TTC) nắm 21.86% và Lengendary Venture Fund 1 (Singapore) nắm 16.43%. Trong đó, Đầu tư TTC là hạt nhân trong hệ sinh thái TTC Group của ông Đặng Văn Thành.
|
Trước đây, có 11 doanh nghiệp FDI niêm yết. Tuy nhiên, 4 trong số đó đã hủy niêm yết do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, bao gồm RIC, CYC, IFS chuyển từ HOSE sang UPCoM và Full Power (FPC) hoàn toàn rời sàn chứng khoán.
Cách đây hơn 20 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP, cho phép một số doanh nghiệp FDI niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán. Thực tế, việc niêm yết của các doanh nghiệp FDI đã trải qua nhiều giai đoạn, sôi động nhất là từ năm 2003 -2008 với 10 doanh nghiệp được chấp thuận chuyển đổi từ công ty TNHH sang CTCP và niêm yết. Doanh nghiệp FDI gần nhất niêm yết là SBV vào năm 2017, kể từ đó chưa ghi nhận thêm trường hợp nào niêm yết mới.
Xét theo nhóm ngành, vật liệu xây dựng và dệt may đóng góp 4 doanh nghiệp trên tổng số 10 doanh nghiệp FDI trên sàn.
Quá trình niêm yết chững lại, những gương mặt cũ cũng thể hiện sức hút không cao đối với nhà đầu tư. Tính trong năm gần nhất (22/02/2024 - 21/02/2025), thanh khoản bình quân mỗi phiên của các cổ phiếu này đa phần dưới mốc 10,000 cp, thậm chí CYC chỉ ở mức 33 cp. Các trường hợp có thanh khoản bình quân cao hơn là KMR hơn 36,000 cp, EVE hơn 74,000 cp và SBT vượt trội với hơn 2.4 triệu cp.
Tại thời điểm 31/12/2024, vốn hóa thị trường của 10 doanh nghiệp FDI trên sàn đạt gần 14,470 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0.2% vốn hóa toàn thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bức tranh kinh doanh phân hóa
Theo thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2023, trong khoảng 29,000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), có tới 16,292 doanh nghiệp báo lỗ; 18,140 doanh nghiệp lỗ lũy kế, tổng giá trị lỗ lũy kế gần 1 triệu tỷ đồng. Số tiền nộp ngân sách nhà nước trong năm 2023 cũng giảm gần 4,000 tỷ đồng so với năm 2022. Việc hơn 50% doanh nghiệp FDI lỗ được nhiều chuyên gia nhận định là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Theo VietstockFinance, bắt đầu từ giai đoạn thị trường không ghi nhận thêm doanh nghiệp FDI niêm yết mới (2017) đến hết năm 2024, bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên sàn chứng khoán có sự phân hóa mạnh mẽ.
Trong 8 doanh nghiệp đã công bố số liệu kết quả kinh doanh lũy kế năm 2024, 5 doanh nghiệp có lãi, gồm SBT (lũy kế 4 quý gần nhất), IFS, TYA, TKU, KMR. Trong đó, SBT, TYA tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2023 và TKU chuyển lãi.
Lũy kế 4 quý gần nhất, SBT lãi ròng hơn 813 tỷ đồng, tăng 47%. Trong quý gần nhất, sản lượng tiêu thụ đạt gần 360 ngàn tấn đường, tăng 4% so với quý liền trước và tăng 11% so với cùng kỳ. Đặc biệt, kênh nội địa tăng trưởng 37%, nhờ vào đóng góp từ kênh công nghiệp (B2B) và kênh thương mại (trader).
Bà Đặng Huỳnh Ức My - Chủ tịch HĐQT SBT cập nhật tình hình và kế hoạch kinh doanh của Công ty tại ĐHĐCĐ bất thường niên độ 2024 - 2025 với nhiều kỳ vọng
|
TYA năm 2024 mang về lãi ròng gấp 81 lần, đạt gần 78 tỷ đồng, cao nhất kể từ năm 2020 và chấm dứt xu hướng suy giảm liên tục nhiều năm. Kết quả tích cực này được hỗ trợ bởi việc tiêu thụ sản phẩm tích cực, nhờ nhu cầu dây cáp điện trong xây xưởng và lắp đặt thiết bị sản xuất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên, đồng thời kiểm soát hiệu quả giá PVC nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí sản xuất và lãi vay ngân hàng.
Với TKU, sau khi lỗ gần 37 tỷ đồng trong năm 2023, Công ty đã nhanh chóng chuyển trạng thái sang lãi ròng hơn 60 tỷ đồng. Doanh nghiệp ngành nhôm này cải thiện biên lãi gộp 11.4 điểm phần trăm, lên gần 16.3%; đồng thời chi phí tài chính giảm hơn một nửa, nhờ giảm lãi vay và lỗ chênh lệch tỷ giá.
Với trường hợp của RIC và CYC, dù chưa có số liệu lợi nhuận lũy kế năm 2024, nhưng kết quả của các năm trước đó đã đủ phản ánh sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, RIC lỗ liên tục từ năm 2019 còn CYC lỗ liên tục từ năm 2014.
*Số liệu SBT là lũy kế từ ngày 01/01 - 31/12 của năm. Nguồn: VietstockFinance
|
Chịu tình cảnh trái ngược là 3 doanh nghiệp lỗ ròng trong năm 2024, gồm SBV và EVE chuyển lỗ, TCR tiếp tục lỗ. Xét trong chu kỳ dài hơn, các doanh nghiệp này cho thấy kết quả kinh doanh ngày càng kém hiệu quả.
SBV - doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất dây PP, dây PE, dây thừng bện dùng trong nông ngư nghiệp - cho biết, đã đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế, tuy nhiên sản phẩm bán cho các khách hàng này đều mới và khác với sản phẩm truyền thống, quy trình sản xuất chưa quen, công nhân vận hành từng công đoạn chưa thành thạo, một số công đoạn phải gia công ngoài, một số nguyên liệu khan hiếm, chi phí sản xuất tăng cao dẫn đến lỗ ròng hơn 30 tỷ đồng. Đây cũng năm đầu tiên SBV chịu lỗ trong một năm tài chính, kể từ khi cổ phần hóa vào năm 2009.
Về phần EVE, doanh nghiệp ngành dệt may lỗ ròng gần 32 tỷ đồng. Doanh thu suy giảm 6%, chủ yếu kênh bán B2B - đơn hàng khách sạn, doanh nghiệp giảm 9%, do nhiều dự án khách sạn tại khu vực phía Nam tạm ngưng thi công; ngành hàng bông tấm giảm 9%, do tính cạnh tranh cao, sự thay đổi về chính sách thu thuế; ngành hàng khăn giảm 57%, do thu hẹp sản xuất để tập trung nguồn lực cho các ngành hàng có biên lợi nhuận cao hơn. Không những vậy, EVE phải đối mặt với biên lãi gộp giảm, lợi nhuận hoạt động tài chính đi xuống, các khoản chi cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp tăng lên.
Trong khi đó, TCR đánh đấu năm thứ hai liên tiếp thua lỗ với hơn 61 tỷ đồng. Việc không ghi nhận doanh thu từ thoái vốn công ty con như cùng kỳ, giá bán giảm trừ chi phí vận chuyển cho khách hàng và hàng loạt chi phí (gas, điện) tăng lên khiến TCR lỗ nặng hơn so với năm 2023.
Công nghiệp gốm sứ Taicera thua lỗ liên tiếp trong hai năm qua - Ảnh: TCR
|
Còn FPC, bị hủy niêm yết trên HOSE vào năm 2011 do lỗ trong 3 năm liên tiếp (từ 2008-2010). Doanh nghiệp tiếp tục chuỗi lỗ ròng, gần nhất là 5 năm lỗ liên tiếp từ 2020-2024, kéo theo vốn chủ sở hữu âm gần 350 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/2024.
Nguồn: VietstockFinance
|
Huy Khải
FILI - 10:00:00 28/02/2025
|