Phân tích định lượng về tác động của vàng đến nền kinh tế Việt Nam
Theo thời gian, quy mô của thị trường vàng Việt Nam ngày càng lớn (tính theo giá trị tuyệt đối). Tuy nhiên, mức độ sôi động của thị trường này cũng như sự biến động của giá vàng ở các thời kỳ khác nhau là khác nhau. Tiếp theo các bài trước, bài này phân tích định lượng về tác động của vàng đến nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay vàng chỉ thuần túy có vai trò cất giữ giá trị. Ảnh: LÊ VŨ
|
Kết quả rút ra với năm vấn đề. Thứ nhất, có những thời điểm vàng đóng vai trò tiền tệ gần như đầy đủ, nhưng hiện nay vàng chỉ thuần túy có vai trò cất giữ giá trị. Thứ hai, không có bằng chứng định lượng cho thấy vàng tác động tiêu cực đến ổn định tỷ giá tiền đồng và cán cân thanh toán. Thứ ba, vàng không gây ra lạm phát và bất ổn vĩ mô; trái lại lạm phát cao và bất ổn vĩ mô làm cho người dân muốn trữ vàng để phòng ngừa rủi ro. Thứ tư, bất ổn hệ thống tài chính xảy ra vào cuối những năm 2000 và đầu năm 2010 là do chính sách cho các ngân hàng thương mại kinh doanh vàng trong điều kiện chưa có đầy đủ các quy định về đảm bảo an toàn và giám sát thận trọng. Thứ năm, cơ chế hoạt động của thị trường vàng hiện nay làm cho việc thu ngân sách từ các hoạt động kinh doanh vàng là không đáng kể.
Khả năng thay thế hoặc cạnh tranh với tiền đồng của vàng
Theo thời gian, quy mô của thị trường vàng Việt Nam ngày càng lớn (tính theo giá trị tuyệt đối). Tuy nhiên, mức độ sôi động của thị trường này cũng như sự biến động của giá vàng ở các thời kỳ khác nhau là khác nhau. Các chức năng cơ bản của tiền bao gồm: (1) trung gian trao đổi, (2) đơn vị đo lường và (3) phương tiện lưu trữ giá trị. Vai trò của vàng đã thay đổi rất nhiều qua các thời kỳ khác nhau. Trước năm 1975, vàng chỉ đóng vai trò chủ yếu là phương tiện lưu trữ giá trị. Ngoại trừ những thời điểm nó được coi là tiêu chuẩn cho tiền tệ, chức năng của một trung gian trao đổi và chức năng của một đơn vị đo lường dường như không đáng kể. Vàng chỉ phát huy đầy đủ ba chức năng của tiền sau năm 1975, đặc biệt là trong những năm 1980 và nửa đầu thập niên 1990, thời kỳ siêu lạm phát với đỉnh điểm là 875% vào năm 1986. Tuy nhiên, chức năng trung gian trao đổi và đơn vị đo lường đã giảm dần kể từ những năm 2000.
Nhìn vào các yết giá trong rao bán bất động sản trên báo chí trong hơn ba thập niên qua có thể thấy rõ điều này. Vào những năm 1990, hầu hết giá bất động sản trên các quảng cáo đều được niêm yết bằng vàng, đến đầu những năm 2000, xu hướng này bắt đầu giảm và ngày nay dường như không thể tìm thấy tin tức nào cho thấy giá bất động sản ở đâu được niêm yết bằng vàng.
Chúng tôi cũng đã phỏng vấn và thu thập thông tin từ nhiều quan điểm khác nhau về vàng và nhiều người trong số họ đã tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Đa số họ đều đồng ý rằng vai trò tiền tệ của vàng ở Việt Nam hiện nay rất khiêm tốn hoặc gần như không có gì.
Theo khảo sát mới đây của Hội đồng vàng thế giới, nhận thức mạnh mẽ của người Việt Nam về vàng được thể hiện rõ khi 81% người từng mua vàng trước đây cho biết họ sẽ mua lại và chỉ 10% cho biết họ không có hứng thú với vàng. Bảng 1 cho thấy mười lựa chọn hàng đầu đối với vàng. Vàng được nhiều người coi là tài sản ưa thích nắm giữ của người dân Việt Nam.
Tác động của vàng tới ổn định tỷ giá và cán cân thanh toán
Hiện tại chưa có bằng chứng nào về tác động tiêu cực của việc tiêu thụ vàng tới dự trữ ngoại hối và tỷ giá hối đoái của Việt Nam ngoài vai trò của một hàng hóa nhập khẩu như bao hàng hóa khác. Có mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và tỷ giá hối đoái, giữa tiêu thụ vàng và tỷ giá hối đoái như được trình bày trong các hình và bảng.
Mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và tỷ giá hối đoái có ý nghĩa ở mức 1%. Khi tỷ giá hối đoái tăng 1% và các biến số khác không đổi, giá vàng trong nước tăng gần 1%. Về cơ bản nó là mối quan hệ một – một. Mối quan hệ này là bình thường trong nền kinh tế thị trường vì vàng là hàng hóa nhập khẩu, mỗi khi tỷ giá thay đổi thì giá hàng hóa nhập khẩu cũng sẽ thay đổi tương ứng.
Mối quan hệ giữa tiêu dùng vàng và tỷ giá hối đoái có ý nghĩa quan trọng ở mức 5% đối với tỷ lệ tiêu dùng thế giới và tiêu dùng bình quân đầu người, và nó không có ý nghĩa đối với tỷ lệ tiêu dùng tính theo phần trăm GDP. Tỷ giá biến động càng cao, lượng tiêu thụ vàng càng cao do phòng ngừa rủi ro xảy ra cùng với sự bất ổn kinh tế vĩ mô như được phân tích ở phần tiếp theo.
Mối liên hệ giữa tiêu thụ vàng ở Việt Nam và cán cân thanh toán được thể hiện trong các hình và bảng. Kết quả phân tích định lượng cho thấy không có mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và cán cân thanh toán trong khi kết quả cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa tiêu dùng vàng và cán cân thanh toán. Nó có ý nghĩa ở mức 1% đối với mức tiêu thụ theo thị phần thế giới và bình quân đầu người; nó không có ý nghĩa đáng kể đối với tiêu dùng tính theo phần trăm GDP. Điều đó có nghĩa là không có bằng chứng thực nghiệm cho thấy tiêu thụ vàng gây ra tác động tiêu cực đến tài khoản vãng lai hoặc cán cân thanh toán ở Việt Nam.
Tác động của vàng đến ổn định kinh tế vĩ mô
Kết quả phân tích định lượng của chúng tôi và các nghiên cứu khác chỉ ra rằng chưa có được bằng chứng cho thấy thị trường vàng gây ra bất ổn vĩ mô trong khi bất ổn vĩ mô khiến người dân nắm giữ nhiều vàng hơn như một tài sản an toàn và có tính thanh khoản cao. Hơn nữa, bất ổn tài chính đã xảy ra do các tổ chức tài chính tham gia kinh doanh vàng mà không có đầy đủ các yêu cầu về đảm bảo an toàn và giám sát thận trọng. Những nỗ lực nhằm loại bỏ hoạt động kinh doanh vàng đã được tiến hành kể từ năm 1955, nhưng những nỗ lực này đã không thành công như các nhà hoạch định chính sách dự đoán. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách lo ngại rằng vàng có thể gây ra bất ổn vĩ mô nhưng không có bằng chứng nào chứng minh cho lo ngại này. Ngược lại, vàng được xem là tài sản an toàn và có tính thanh khoản cao, đặc biệt trong thời kỳ bất ổn kinh tế vĩ mô hoặc rủi ro chính trị.
Hình 5 cho thấy có mối quan hệ 1-1 giữa diễn biến giá vàng thế giới và diễn biến giá vàng trong nước. Điều này có nghĩa là chính sách công hầu như không thể có bất kỳ tác động nào đến giá vàng trong nước. Dù có chính sách nhập khẩu và giao dịch vàng nào ở Việt Nam thì vàng vẫn được nhập khẩu vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu và giá vàng trong nước do giá vàng thế giới quyết định. Ngay cả vàng SJC có giá cao hơn so với vàng thường vẫn phải bám sát giá vàng thế giới.
Hình 6 cho thấy không có mối liên hệ nào giữa biến động giá vàng và lạm phát ở Việt Nam trong ba thập niên qua. R bình phương (chỉ số giải thích mối quan hệ) chỉ là 2,6%. Điều này có nghĩa là không có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy vàng gây ra lạm phát ở Việt Nam. Nghiên cứu về thị trường vàng và các vấn đề kinh tế vĩ mô cũng cho kết quả tương tự. Kết quả tương tự về không có mối liên hệ giữa lạm phát và giá vàng cũng được tìm thấy ở các quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ảrập Saudi và Mỹ. Nói cách khác, vàng là một hàng hóa có thể ngoại thương, giá của nó được quyết định bởi giá thế giới, và các quốc gia không có khả năng tác động vào nó.
Có mối tương quan cao giữa tiêu thụ vàng và lạm phát vì vai trò phòng ngừa rủi ro của vàng. Lạm phát càng cao thì mức tiêu thụ vàng càng cao. Điều này đúng ở các nước khác và ở Việt Nam như được phản ánh trong hình 7, hình 8.
Tác động của vàng tới hệ thống tài chính
Về tác động đến ổn định tài chính, vấn đề nằm ở việc tham gia giao dịch vàng của các tổ chức tài chính mà không có đầy đủ các yêu cầu về đảm bảo an toàn và giám sát thận trọng. Giai đoạn 2009-2011 chứng kiến hoạt động kinh doanh vàng rất sôi động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Hoạt động đầu cơ vàng khiến cho vị thế vàng trở nên âm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề thanh khoản của một số ngân hàng trong giai đoạn 2010-2012. Ngoài vấn đề thanh khoản, hoạt động đầu cơ vàng cũng dẫn đến thua lỗ đáng kể. Nhiều ngân hàng gặp vấn đề về thanh khoản cuối cùng trở thành ngân hàng yếu kém và phải tái cơ cấu từ năm 2013.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) là một trong những ngân hàng rất tích cực trong hoạt động kinh doanh vàng. Cuối năm 2010, bảng cân đối kế toán của SCB cho thấy có 8.886 tỉ đồng nợ phải trả dưới hình thức chứng chỉ vàng phát hành cho người gửi tiền. Về mặt tài sản, SCB nắm giữ lượng vàng tiền tệ trị giá 2.745 tỉ đồng và vàng trị giá 3.021 tỉ đồng thế chấp tại các tổ chức tín dụng khác. Nhưng SCB lại gặp vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản vào năm 2011 khiến SCB bị đánh giá là ngân hàng yếu kém và đã sáp nhập với hai ngân hàng khác là First Commercial Bank (FCB) và Tín Nghĩa Bank (TNB) vào tháng 1-2012. Năm 2012, SCB mới sáp nhập báo lỗ kinh doanh vàng 802 tỉ đồng. Theo chương trình tái cơ cấu SCB, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ra lệnh đóng trạng thái vàng âm.
Ngân hàng thứ hai thua lỗ nặng từ kinh doanh vàng là Ngân hàng TMCP Đông Á (DAB). DAB là một trong năm ngân hàng thương mại được phép kinh doanh vàng London (vàng tài khoản) và bán vàng trong nước để “bình ổn giá”. Theo báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2011 của DAB, ngân hàng này có trạng thái vàng nội bảng âm 2.678 tỉ đồng vào cuối năm 2011. Tháng 8-2015, NHNN đưa DAB vào diện kiểm soát đặc biệt.
ACB, một trong những ngân hàng TMCP lớn nhất, cũng tham gia rất nhiều vào giao dịch vàng bao gồm vàng vật chất, vàng London và các sản phẩm phái sinh vàng. Truyền thông đưa tin rộng rãi về hoạt động mua bán vàng của ACB và các công ty thuộc quyền kiểm soát của một trong những cổ đông lớn của ACB trong giai đoạn 2011-2014. Năm 2012, lỗ tổng hợp trong kinh doanh vàng và ngoại hối của ACB lên tới 1.864 tỉ đồng, trong đó lỗ kinh doanh vàng vật chất là 573 tỉ đồng.
Eximbank là một ngân hàng thương mại khác tham gia kinh doanh vàng trong giai đoạn 2010-2012. Năm 2012, Eximbank báo cáo lỗ tổng hợp trong kinh doanh ngoại hối và vàng là 297 tỉ đồng.
Trong số 37 ngân hàng trong nước hoạt động năm 2012, có 18 ngân hàng báo lỗ trong hoạt động kinh doanh vàng (hình 9). Một số khoản lỗ này khá lớn và trở thành yếu tố quan trọng góp phần gây ra tình trạng dễ bị tổn thương chung của toàn hệ thống ngân hàng trong giai đoạn 2011-2013.
Hiện nay vàng chỉ thuần túy có vai trò cất giữ giá trị. Ảnh: LÊ VŨ
|
Năm 2012, NHNN siết chặt kinh doanh vàng, buộc các ngân hàng phải đóng tài khoản vàng ở nước ngoài, ngừng huy động và cho vay vàng, giải quyết hoàn toàn trạng thái vàng trước ngày 30-6-2013.
Trước sự xử lý nghiêm khắc của NHNN và từng chịu lỗ lớn trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại tuân thủ và rút hoàn toàn khỏi hoạt động kinh doanh vàng trong và ngoài nước. Phải mất ba năm từ 2012-2014, các ngân hàng mới có thể trích lập dự phòng tổn thất và thu hồi các khoản phải thu, tài sản bảo đảm liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng.
Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của tất cả các ngân hàng thương mại trong nước từ năm 2015-2023 cho thấy không có doanh thu hay chi phí nào liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng, vốn ngoại hối đã trở thành một nguồn thu nhập ngày càng quan trọng.
Lượng vàng mà các ngân hàng nắm giữ cũng trở nên rất nhỏ. Tính đến ngày 30-9-2023 thì 31 ngân hàng trong nước nắm giữ tổng giá trị vàng chỉ còn 1.316 tỉ đồng (tương đương 54 triệu đô la Mỹ). Trở lại năm 2011-2012, đây là lượng vàng nắm giữ trong tài sản của một ngân hàng cỡ trung bình. Trong tổng giá trị vàng này, vàng gửi tại ngân hàng chiếm 96% trong khi các khoản cho vay bằng vàng và các tài sản bằng vàng khác chỉ chiếm 4%. Nhìn vào hình 10, ngay cả đối với TPB có lượng vàng nắm giữ trong tài sản lớn nhất, vàng cũng chỉ chiếm 0,28% tổng tài sản của ngân hàng này vào năm 2023.
Tóm lại, từ những giao dịch vàng cực điểm ở những năm 2009-2011, ngành ngân hàng Việt Nam hiện gần như không có hoạt động giao dịch vàng do quy định nghiêm ngặt của NHNN.
Tác động của vàng đến nguồn thu ngân sách
Bản chất thị trường vàng ở Việt Nam cho thấy khó có khả năng thu được nguồn thu thuế lớn từ kinh doanh vàng. Nói cách khác, lẽ ra Việt Nam phải có nguồn thu thuế tốt hơn nếu thị trường vàng sôi động và hoạt động lành mạnh. Tuy nhiên, do một lượng lớn vàng đã được nhập lậu vào Việt Nam và các hoạt động kinh doanh liên quan không được hạch toán rõ ràng nên không thể thu thuế. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh phi chính thức liên quan đến vàng sẽ rất đáng kể. Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng (VAT) lẽ ra phải là nguồn thu thuế chính cho hoạt động kinh doanh vàng ở Việt Nam. Những năm qua, phần lớn vàng nhập khẩu vào Việt Nam đều thông qua kênh không chính thức (buôn lậu) nên khó có thể biết chính xác giá trị đầu vào. Vì vậy, thuế VAT trong kinh doanh vàng ở Việt Nam khó có thể lớn. Chính sách hiện hành khiến việc chính thức hóa thị trường vàng trở nên khó khăn hơn do lượng vàng nhập khẩu chính thức chưa nhiều.
Huỳnh Thế Du - Nguyễn Xuân Thành
TBKTSG
|