Chủ tịch TCM Trần Như Tùng: Tiền đâu để làm xanh làm sạch?
Ông Trần Như Tùng - Chủ tịch HĐQT CTCP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (HOSE: TCM) thừa nhận việc xanh hóa sản xuất trong ngành dệt may khiến nhiều doanh nghiệp hết sức trăn trở, bởi chi phí đầu tư rất tốn kém. Để giải quyết bài toán này, TCM chọn cách dùng lợi nhuận giữ lại, cộng với khoản vay ngân hàng.
Những năm gần đây, tăng trưởng xuất khẩu ngành dệt may của Việt Nam biến động theo xu hướng chung của cả nước. Năm 2023, do gặp nhiều khó khăn về đơn hàng xuất khẩu nên nhiều doanh nghiệp Việt tìm hướng đầu tư phát triển sâu hơn nữa trên sân nhà. Tuy nhiên, thị trường nội địa cũng không phải miếng bánh dễ ăn.
Chưa kể, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn sản phẩm, tác động đến con người và môi trường trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đã buộc doanh nghiệp Việt phải hành động và thích nghi.
Vào một buổi sáng của những ngày cuối tháng 3, chúng tôi có cuộc trò chuyện cùng ông Trần Như Tùng - Chủ tịch HĐQT CTCP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (HOSE: TCM) xung quanh về những vấn đề trên.
Giai đoạn hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã chuyển hướng sang công đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Liệu các doanh nghiệp đã khai thác được hiệu quả những phương thức cũng như làm chủ đầu vào chưa, thưa ông?
Chủ tịch Trần Như Tùng: Thực tế, các quốc gia như Bangladesh, Campuchia, Indonesia có chi phí nhân công thấp hơn nước ta rất nhiều. Nếu chúng ta làm những mặt hàng mà họ cũng làm được thì khó lòng cạnh tranh. Đó cũng là lý do vì sao thời gian qua, Việt Nam và Bangladesh cạnh tranh nhau rất nhiều về đơn hàng.
Do đó, muốn thay đổi, chúng ta phải làm những đơn hàng mà đối thủ cạnh tranh không thể làm lúc này, bằng cách phải đưa giá trị vào mặt hàng cao lên. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp đều hiểu điều đó, tuy nhiên không phải ai cũng làm được, vì phụ thuộc vào năng lực sản xuất, quản trị, tài chính của mỗi doanh nghiệp.
Muốn làm đơn hàng ở mức độ khó hơn cũng đòi hỏi kỹ thuật của công nhân cao hơn, máy móc thiết bị hiện đại hơn. Ở Việt Nam, những doanh nghiệp lớn mới bắt đầu tiếp cận chuyển hướng sản xuất, trong đó có TCM.
Nhìn chung, dịch chuyển lên các khâu thượng nguồn của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu là xu thế, nhưng Việt Nam chỉ mới bắt đầu bước vào con đường đó, nên cần thêm thời gian. Đối với TCM, xưa nay hầu như sản xuất theo FOB (chủ động nguồn nguyên liệu), còn phương thức gia công CMT cũng có nhưng rất ít, khi nào thiếu đơn hàng mới nhận làm.
Dù trải qua năm 2023 đầy khó khăn, những tín hiệu tích cực cho ngành dệt may đã bắt đầu xuất hiện ngay trong quý 1/2024. Với diễn biến hiện tại, liệu mục tiêu xuất khẩu 44 tỷ USD trong năm 2024, tăng 10% so với năm 2023, của ngành dệt may có thay đổi?
Trước mắt, khả năng có thể đạt được con số đó, còn cao hơn nữa hay không không chắc. Bây giờ cũng mới chỉ là quý 1 của năm 2024. Với đà hồi phục của thế giới, cộng với tín hiệu đơn hàng trong quý này, mục tiêu xuất khẩu tăng 10% có thể đạt được trong năm nay.
Ông đánh giá ra sao về rủi ro và khả năng thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2024 mà Công ty đề ra?
Năm 2024, TCM đặt mục tiêu doanh thu 3,707 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 161 tỷ đồng, tăng lần lượt 11% và 20% so với năm 2023.
Nếu thị trường không có gì biến động bất thường thì từ giờ tới cuối năm, đặc biệt khi nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ có thể kiểm soát được lạm phát, kỳ vọng lãi suất giảm xuống trong quý 2/2024 và cầu sẽ tăng lên, khi đó ngành xuất khẩu Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng sẽ tốt lên.
Trên cơ sở đó, kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2024 của TCM sẽ có thể đạt được, chưa kể việc Công ty TNHH Dệt may SY Vina kỳ vọng mang lại khoảng 17 triệu USD doanh thu, đóng góp cho công ty mẹ TCM (thời điểm cuối năm hợp nhất).
Là công ty thường xuyên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu và phần lớn doanh thu lẫn chi phí được ghi nhận bằng USD, TCM nhìn nhận thế nào về mặt lợi - hại do biến động tỷ giá mang lại?
Tỷ giá USD/VND tăng thường có lợi hơn cho xuất khẩu, vì doanh thu đổi ra VND được tăng lên. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vay nợ bằng USD sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực khi gánh chi phí tăng thêm, còn doanh nghiệp nào không vay USD mà vốn bằng VND thì hoàn toàn có lợi.
TCM sẽ cân nhắc lãi suất USD, VND và biến động tỷ giá để lựa chọn nên vay bằng loại tiền nào. Đơn cử, những năm trước tỷ giá USD/VND ổn định thì Công ty chọn vay USD để nhập nguyên liệu về (mua bông), nhưng trong năm vừa qua, lãi suất USD tăng, lãi suất VND giảm xuống, Công ty chọn vay bằng VND. Nhìn chung, biến động tỷ giá có lợi hay hại tùy thuộc vào doanh nghiệp vay cái gì, riêng TCM linh hoạt, do đó tỷ giá không phải vấn đề lớn đối với Công ty.
Công ty đã nhận được đơn hàng tới thời điểm nào? Việc tìm kiếm khách hàng hiện ra sao?
Đơn hàng quý 2 gần như đủ và đang tiếp tục nhận cho quý 3. Khác với năm trước, thay vì đặt hàng dài hơi, các khách hàng năm nay đã thận trọng khi yêu cầu đơn hàng nhỏ, thời gian giao hàng ngắn, do chịu cú sốc tồn kho từ những năm trước.
Những năm trước, ngay từ quý 1 đã có đơn hàng cho hết năm. Sau giai đoạn COVID-19, họ đã thay đổi, không đặt lâu như vậy mà đặt ngắn hạn lại, điều này cũng gây áp lực lên nhà sản xuất, bởi khi nhận đơn hàng là phải làm liền, khác với trước kia.
Hơn 90% sản phẩm của TCM xuất khẩu. Liệu cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2024 có thay đổi? Công ty có chiến lược đẩy mạnh kinh doanh nội địa và phát triển thương hiệu TCM không?
Tại thị trường nội địa, TCM xưa giờ để mắt tới rất nhiều, nhưng nếu làm thì không mang lại lợi nhuận. Đó là lý do vì sao cơ cấu xuất khẩu của Công ty rất lớn. Nói thế không có nghĩa chúng tôi bỏ quên thị trường trong nước. TCM vẫn phát triển một thương hiệu thời trang nội địa là “noname”, song chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng doanh thu.
Thời gian qua, nhiều thương hiệu thời trang quốc tế như Zara, H&M, Uniqlo... liên tục đổ bộ vào Việt Nam và ngày càng phổ biến trong thói quen mua sắm của người dùng Việt. Đây là động lực phát triển hay thách thức đối với doanh nghiệp Việt?
Tôi cho rằng có cả động lực lẫn thách thức, nhưng thách thức nhiều hơn, bởi xưa giờ người Việt chuộng hàng ngoại. Ví dụ, cùng một sản phẩm chất lượng như nhau, thiết kế có thể tương đương, nhưng khách hàng sẽ chọn thương hiệu ngoại như Zara, Uniqlo thay vì hàng Việt.
Rất nhiều thương hiệu thời trang quốc tế đã đến Việt Nam và đang bán giá rất tốt. Đó là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp nước ta. Cạnh tranh về thương hiệu, chúng ta không mạnh bằng nước ngoài, vậy nên phải tìm cách nào đó để kéo khách hàng đến mình, bằng việc đưa giá bán thấp hơn, nếu cùng chất lượng.
Đây là thách thức không hề nhỏ, kể cả những doanh nghiệp lớn cũng gặp khó chứ đừng nói doanh nghiệp nhỏ. Đó cũng là lý do vì sao thị trường thời trang nội địa càng ngày càng bó lại, “miếng bánh” thị phần bị xé nhỏ dần. Dù ai cũng thấy Việt Nam được lợi thế đông dân, rất tiềm năng, nhưng để làm và khai thác sao cho có lợi nhuận thì không phải dễ. Thậm chí, các ông lớn nước ngoài vào nước ta với chiến lược chấp nhận không có lợi nhuận, bù từ thị trường khác đắp qua nhằm lấy thị phần, do đó bán giá của họ rất thấp.
TCM tận dụng các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã và sẽ ký kết ra sao? Công ty có lợi thế nào khác biệt so với các doanh nghiệp cùng ngành?
Chúng ta có lợi thế rất nhiều. 2 hiệp định thương mại tác động lớn đối với ngành dệt may là Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
Quy tắc xuất xứ chủ đạo đối với hàng dệt may trong CPTPP là “từ sợi trở đi”, còn quy tắc xuất xứ của EVFTA yêu cầu “từ vải trở đi” kết hợp với yêu cầu “từ sợi trở đi” của CPTPP. Hiển nhiên TCM đáp ứng được yêu cầu đó, do là đơn vị cung cấp sợi và sản xuất vải. Vì vậy, nếu TCM xuất hàng đi những nước trong khối CPTPP thì được hưởng thuế ưu đãi so với các doanh nghiệp không mua sợi, mua vải từ các nước trong khối này.
Thị trường châu Âu chỉ chiếm khoảng 5% tổng doanh thu của thị phần TCM. Chiến lược phát triển thị trường này thời gian tới như thế nào?
TCM đã nhiều lần cố gắng tiếp cận các khách hàng châu Âu. Tuy nhiên, phải thừa nhận những mặt hàng mà Công ty đang làm không đủ sức cạnh tranh với các quốc gia như Campuchia hay Bangladesh, khi họ được ưu đãi thuế xuất vào châu Âu bằng 0, do đó doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh rất khó. Chỉ khi làm những mặt hàng mà họ không làm thì mới có cơ hội xuất vào châu Âu.
Sau khi thị trường hồi phục, mất bao lâu để nhà máy may Vĩnh Long 2 tại khu công nghiệp Hòa Phú (Vĩnh Long) đạt công suất kế hoạch? TCM có dự định mở rộng thêm dự án nào không?
Vào tháng 3/2022, TCM hoàn thành xây nhà máy May Vĩnh Long 2 với chi phí khoảng 12 triệu USD (chưa bao gồm tiền thuê đất), quy mô 1,500 lao động, công suất khoảng 9 triệu sản phẩm/năm. TCM dự kiến tuyển lao động để đạt công suất theo kế hoạch ngay sau khi thị trường có dấu hiệu hồi phục.
Do đó, để đạt được công suất theo kế hoạch, tùy thuộc vào tình hình đơn hàng. Tới thời điểm hiện tại, đơn hàng dù hồi phục nhưng chưa thực sự tăng trưởng mạnh, vẫn còn rất chậm.
Trước đây, TCM dự kiến đầu tư giai đoạn 3 và 4 để xây dựng nhà máy đan và nhuộm tại khu công nghiệp Hòa Phú, tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, do chi phí xây dựng nhà máy quá cao và công suất tỉnh Vĩnh Long cấp phép không đạt như kỳ vọng, do đó TCM quyết định tạm dừng mở rộng dự án nhà máy tại Vĩnh Long và chuyển nhượng phần còn lại của nhà máy đan và nhuộm với diện tích đất khoảng 68,000m2.
Năm 2014, Công ty đã đầu tư mảnh đất này ở mức 26 USD/m2 (bao gồm VAT), giá bán dự kiến ngoài thị trường hiện trên dưới 120 USD/m2. Do đó, TCM sẽ chuyển nhượng và dùng khoản tiền này để mua lại Công ty TNHH Dệt may SY Vina.
*Chủ tịch TCM: Mua lại SY Vina hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư xây dựng mới
Trụ sở chính của Công ty TNHH Dệt may SY Vina
Công ty dự tính phát triển mảng bất động sản như thế nào? Dự án Thành Công Tower (TC1) bao giờ được chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND TPHCM?
Chúng tôi rất muốn làm dự án này. Bao nhiêu năm qua vẫn đi làm pháp lý. Tuy nhiên, phần do năng lực của mình, phần do chính quyền Thành phố cũng rất thận trọng khi phê duyệt, ký các quyết định. Tất cả dự án đều đứng, không riêng gì TCM. Vì vậy, dự án Thành Công Tower cũng chậm theo.
Trong quý 4/2023, HĐQT Công ty chọn cách làm khác. Thay vì tự làm thì ưu tiên tập trung nguồn lực và phối hợp cùng đối tác để hoàn thành hồ sơ pháp lý, xin phép xây dựng trong thời gian nhanh nhất cho dự án TC1. Cộng với việc Thành phố đang dần nới lỏng các quy định đối với các dự án bất động sản, chúng tôi kỳ vọng sẽ có giấy phép xây dựng sớm.
Yêu cầu về bền vững và cạnh tranh đã thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chuyển đổi xanh. TCM định hướng phát triển bền vững như thế nào và hành động gì cho một tương lai “xanh”?
Về phát triển bền vững (ESG), chúng tôi đã nghĩ đến từ 7 - 8 năm trước, khi nhận được những tín hiệu từ khách hàng, chứ không phải là những bước đi mới đây. Đó là lý do TCM lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển kinh doanh (R&BD), để sản xuất vải thân thiện với môi trường, vải tái chế.
Bên cạnh đó, TCM hợp tác cùng Công ty REE SOLAR để đầu tư và lắp đặt hệ thống điện mặt trời tại nhà máy may 1, 2 Vĩnh Long; trong đó, một phần sử dụng cho nhà máy, phần dư để bán. Tại nhà máy sợi ở Tây Ninh, vào đầu tháng 4, Công ty sẽ gặp một số đối tác để làm điện mặt trời áp mái.
TCM cũng sử dụng mô hình xử lý nước thải thông qua hệ thống tuần hoàn nước. Ngoài ra, chúng tôi đã và đang có kế hoạch thay đổi chất đốt lò hơi từ than đá sang nguyên liệu sinh khối Bio-mass hoặc sử dụng các nồi hơi điện thay thế các lò hơi công suất thấp để giảm khí thải CO2 ra môi trường cho một số nhà máy.
Trên đây là những điểm TCM tập trung về môi trường, nhưng đó mới chỉ là chữ cái đầu tiên “E” trong ESG.
Đối với vấn đề xã hội - chữ “S” trong ESG, gồm các chính sách cho người lao động vẫn được Công ty tuân thủ theo những yêu cầu từ khách hàng, đặc biệt xem trọng vấn đề con người, môi trường làm việc. Về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), TCM vẫn liên tục duy trì hoạt động thiện nguyện, chính sách xã hội định kỳ hàng năm.
Còn lại vấn đề quản trị doanh nghiệp - chữ “G” trong ESG, từ trước đến nay, Công ty được đánh giá cao, sẽ tiếp tục duy trì, phấn đấu tốt hơn.
Thực tế, một số doanh nghiệp dệt may phải chịu cảnh mất đơn hàng vì chậm chuyển đổi. Điều gì khiến các doanh nghiệp này không kịp chuẩn bị trước những thay đổi lớn của ngành?
Tôi cho rằng khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề tài chính. Áp lực lớn nhất làm ESG chính là chi phí, vì mình làm cho tương lai, tức là khách hàng yêu cầu phải xanh, phải sạch nhưng giá lại không tăng, trong khi tốn rất nhiều chi phí thì chỉ có lỗ hoặc hòa vốn. Các doanh nghiệp rất ngại điều đó và chỉ những doanh nghiệp có năng lực tài chính, họ chấp nhận biên lợi nhuận giảm xuống vì thấy được tương lai nên phải làm, TCM cũng không ngoại lệ. Đổ tiền làm về môi trường rất tốn kém. Để giải quyết bài toán này, TCM chọn cách dùng lợi nhuận giữ lại, cộng với khoản vay ngân hàng.
Trên cương vị là Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Phát triển Bền vững của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) và đã tiếp xúc với rất nhiều tổ chức tài chính quốc tế, tôi từng nói với họ rằng muốn giúp dệt may Việt Nam thì phải cho nguồn vốn vay giá rẻ, tức khắc doanh nghiệp sẽ làm tốt việc phát triển xanh chứ không phải không muốn làm.
Nhưng tiền đâu để làm, trong khi vẫn phải ưu tiên trả lương người lao động trước. Nếu không có tiền trả lương thì lấy tiền đâu để đi làm xanh với sạch? Xét tới cùng, những tổ chức đó xem xét rất kỹ và đưa ra những yêu cầu mà doanh nghiệp Việt Nam khó có thể đáp ứng được.
Chiến lược phát triển sắp tới của TCM để nâng cao và đáp ứng tiêu chuẩn sản phẩm ngày càng cao?
Chắc chắn chúng tôi phải chú trọng xây dựng các “kế hoạch xanh” phục vụ cho chiến lược “sản xuất xanh”. Tất nhiên đó là một hành trình dài, không phải 1 - 2 năm có thể làm được, nhưng chúng tôi có định hướng làm tốt hơn mỗi năm, cải thiện dần dần.
Thực hư câu chuyện ngành dệt may Việt Nam bị Bangladesh qua mặt vì xanh hóa chậm hơn? Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ câu chuyện thành công của Bangladesh?
Thứ nhất, cơ cấu đóng góp vào GDP Bangladesh của ngành dệt may hoàn toàn khác so với Việt Nam. Của họ là 80% trong khi chúng ta chỉ chiếm 12 - 16% GDP hàng năm. Khi đó, nguyên tắc cái nào mang lại nhiều thì được bảo vệ, tức là Chính phủ Bangladesh sẽ ưu tiên cho các doanh nghiệp dệt may những chính sách như giảm lãi, hỗ trợ vốn vay giá rẻ để làm nhà máy xanh, sạch. Đối với các tổ chức quốc tế cũng vậy. Bangladesh là quốc gia nghèo hơn Việt Nam nên họ cũng tạo điều kiện hơn. Đó là lý do vì sao Bangladesh làm rất nhiều nhà máy xanh, sạch so với Việt Nam, cũng giúp họ nhận được nhiều đơn hàng hơn.
Nếu đặt lên bàn cân để so sánh thì rất khó. 2 quốc gia với 2 nền kinh tế khác nhau. Tới thời điểm hiện tại, Việt Nam không nhắm đến ngành dệt may giá rẻ nữa và bản thân các doanh nghiệp phải tự thân vận động nếu muốn nhận đơn hàng, chứ mong chờ sự hỗ trợ từ Chính phủ sẽ rất khó.
“Xanh hóa” liệu có phải là thước đo duy nhất để đại diện cho tính bền vững của một ngành công nghiệp? Nếu “xanh hóa” hay “bền vững” chưa phải là câu trả lời đầy đủ, vậy yếu tố nào giúp ngành dệt may trở nên hấp dẫn trong mắt người mua?
Tôi không nghĩ xanh hóa là yếu tố duy nhất trong vấn đề phát triển bền vững hay nhận được đơn hàng. Ngay từ cụm ESG, chữ "E" cũng chỉ là một cấu phần trong đó. Trong khi đó, vấn đề nghiêng về con người sẽ được ủng hộ, duy trì và bền vững hơn.
Ví dụ, Bangladesh có nhiều nhà máy xanh, nhưng công nhân của họ sống dưới mức nghèo khổ, nhiều nơi đình công yêu cầu Chính phủ tăng lương... Đồng nghĩa việc quốc gia này làm chữ "S" chưa tốt, điều này sẽ gây ra sự không bền vững.
Tóm lại, chỉ xanh không thôi là chưa đủ. Cần chú trọng những yếu tố khác, đặc biệt vấn đề con người. Chúng ta hãy cứ lo đời sống con người tốt ắt bền vững tốt hơn. Yếu tố nữa là nâng cao giá trị sản phẩm của mình hơn.
Thế Mạnh
FILI
Chủ tịch TCM: Mua lại SY Vina hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư xây dựng mới
|