Lo ngại dòng tín dụng được ‘điều hướng’ cho doanh nghiệp sân sau đầy rủi ro Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng có thể khiến dòng chảy tín dụng (huy động ngắn hạn) bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ. Trong khi những doanh nghiệp có nhu cầu chính đáng muốn vay lại không tiếp cận được khi nguồn vốn trung và dài hạn chưa đủ đáp ứng được nhu cầu.
Đây là nội dung nổi bật trong báo cáo “Đổi mới cơ chế phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, một vài hàm ý với thị trường bất động sản” vừa được Viện Nghiên cứu bất động sản Việt Nam (VIRES) công bố.
Tại báo cáo, các chuyên gia nhấn mạnh việc quan tâm thực hiện chính sách tài khóa có thể sẽ có giá trị hơn, đặc biệt trong thời gian từ nay đến cuối năm. Tuy nhiên, giải pháp tăng cường mở rộng tài khóa kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ chỉ phát huy hiệu quả và góp phần tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế khi điều tiết hợp lý, kiểm soát được mục đích sử dụng vốn và minh bạch dòng chảy tín dụng.
Đầu ra tín dụng tiềm ẩn rủi ro
Các chuyên gia từ VIRES nhấn mạnh, hầu hết khoản gửi tiết kiệm của người dân tại các ngân hàng thương mại đều có kỳ hạn ngắn. Nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy phải sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay kỳ hạn dài. Hoạt động này tiềm ẩn rủi ro lớn đối với thanh khoản hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước đã đề ra lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung hạn và dài hạn tại các ngân hàng giảm xuống còn 30% kể từ ngày 1-10 năm nay.
Sở hữu chéo khiến dòng chảy tín dụng bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ. Ảnh minh họa: Lê Vũ |
VIRES cho rằng với tính chất của một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, việc giảm dần tỷ lệ này là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo an toàn vốn cho hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, để tránh đổ vỡ dây chuyền trong bối cảnh nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực có tính đầu kéo như bất động sản còn nhiều khó khăn và không triệt tiêu cơ hội phục hồi của doanh nghiệp, cần hướng đến “nắn dòng” tín dụng thay vì “ngăn sông”.
Theo đó, không nên áp dụng chính sách siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung – dài hạn chung cho toàn thị trường, mà phải có chính sách riêng cho từng phân khúc, từng thời điểm và thậm chí là từng nhà đầu tư.
Hiện Ngân hàng Nhà nước đã tính đến việc giảm hệ số rủi ro với tín dụng cho nhà ở xã hội và tín dụng tài trợ dự án kinh doanh bất động sản sản khu công nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ. Tuy nhiên, một số phân khúc bất động sản nhà ở khác cũng cần được giảm hệ số rủi ro như nhà ở cho người thu nhập trung bình.
Để có cơ sở “nắn” dòng vốn tín dụng, cần khẩn trương xây dựng tiêu chí đánh giá phân loại phân khúc bất động sản dựa vào tiềm năng, thanh khoản của thị trường làm cơ sở xem xét áp dụng hệ số rủi ro phù hợp, thay vì đánh đồng ở mức 200% như hiện nay.
Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế giám sát mục đích sử dụng vốn để vốn tín dụng đi vào phân khúc, dự án lành mạnh, bền vững, đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng, tránh tình trạng dòng chảy tín dụng đi sai hướng.
“Trên thực tế, tình trạng sở hữu chéo giữa hệ thống tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp trong lĩnh vực có độ rủi ro cao (như bất động sản) với biểu hiện thao túng dòng chảy tín dụng, rót vốn “sân sau”, sử dụng vốn sai mục đích đang có tác động xấu đến chất lượng tín dụng, làm gia tăng rủi ro hệ thống. Điều này có thể khiến dòng chảy tín dụng (huy động ngắn hạn) bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ. Trong khi những doanh nghiệp có nhu cầu chính đáng muốn vay lại không tiếp cận được”, báo cáo nêu.
Nền kinh tế “khát” vốn nhưng vẫn khó hấp thụ
Trong báo cáo, các chuyên gia VIRES đánh giá, mục tiêu nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, doanh nghiệp thời gian qua đã tốt dần lên, tuy nhiên vẫn chưa được như kỳ vọng. Vấn đề nằm ở khâu cho vay của các tổ chức tín dụng hay nằm ở đầu ra của nền kinh tế?
Sau khi phân tích một số yếu tố như thanh khoản hệ thống ngân hàng cùng điều kiện cho vay (vẫn được duy trì), năng lực hấp thụ của nền kinh tế và doanh nghiệp (suy yếu) và lãi suất (vẫn còn chịu nhiều ràng buộc), các chuyên gia kết luận, chính sách tiền tệ thời gian qua chưa phát huy hiệu quả, lỗi không nằm ở chính sách tiền tệ.
Và thực tế, không gian cho chính sách tiền tệ không còn nhiều nếu không muốn nói là chính sách tiền tệ đang “quá sức”. Thực tế, các số liệu về tăng trưởng tín dụng, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã cho thấy thực trạng của các doanh nghiệp và nền kinh tế hiện nay đã vượt khả năng của chính sách tiền tệ. Sự hồi phục về tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đó cũng không thể chỉ xuất phát từ nỗ lực duy nhất của ngành ngân hàng.
Khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, doanh nghiệp thời gian qua đã tốt dần lên, tuy nhiên vẫn chưa được như kỳ vọng. Ảnh minh họa: DNCC |
Do đó, VIRES đã đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hóa giải nghịch lý nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn.
Thứ nhất là tăng cường mở rộng tài khóa, kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ. Doanh nghiệp phải hoạt động, người dân có việc làm thì mới có thể lưu thông tiền tệ, ngược lại, sẽ khiến tiền tồn kho trong ngân hàng, trường hợp xấu hơn còn làm tăng lạm phát .
Thứ hai là cải cách môi trường đầu tư kinh doanh. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chỉ phát huy hiệu quả khi và chỉ khi các doanh nghiệp được gỡ bỏ các rào cản về thủ tục đầu tư, kinh doanh.
Thứ ba là giải quyết những vấn đề then chốt của hệ thống tín dụng, đặc biệt là tình trạng sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp trong lĩnh vực có rủi ro cao.
Dù Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định các tỷ lệ về giới hạn sở hữu cổ phần của các cá nhân, tổ chức và người có liên quan nhằm tăng sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, về quy định này, báo cáo cho rằng điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ. Còn trên thực tế, các cổ đông có thể sử dụng nhiều cách thức, thông qua các mối quan hệ không bị giới hạn theo quy định tại luật để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần thực tế và nắm quyền chi phối tại các tổ chức tín dụng.
Do vậy, việc tiếp tục quy định giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ 5% xuống 3% vốn điều lệ, sở hữu của một cổ đông từ tổ chức giảm từ 15% xuống 10%. Hay tỷ lệ của nhóm cổ đông liên quan từ 20% xuống 15% tại dự thảo sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng vì thế sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo.
Để kiểm soát sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Theo đó, khuôn khổ pháp lý cần thiết kế nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng đó. Điều này có nghĩa là làm minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu.
Ngoài ra, kiểm soát tình trạng sở hữu chéo hiện nay đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước nâng cao năng lực thanh tra, giám sát và nhìn nhận các mối quan hệ chồng chéo trong việc sở hữu và cho vay. Trong đó lưu ý kỹ hơn về mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản.
“Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và có những cảnh báo sớm về tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro… Đây là yếu tố quan trọng trong việc hóa giải nghịch lý nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn. Nỗ lực giảm lãi suất chỉ là bề nổi”, báo cáo đưa ra nhận định.
V.Dũng TBKTSG
|